Rối loạn chuyển hóa calci là gì
Rối loạn chuyển hóa canxi là bệnh lý thường gặp, xảy ra khi cơ thể có quá ít hoặc quá nhiều canxi. Tùy thuộc vào nồng độ canxi, bệnh nhân có thể bị tăng canxi huyết và hạ canxi huyết (giảm nồng độ canxi huyết tương). Các phương pháp điều trị sẽ dựa trên tình trạng cụ thể. Rối loạn chuyển hóa canxi là tình trạng tăng hoặc giảm đột ngột nồng độ canxi máuRối loạn chuyển hóa canxi là thuật ngữ y tế thể hiện cho tình trạng tăng hoặc giảm đột ngột nồng độ canxi máu trong cơ thể người. Điều này làm ảnh hưởng đến sức khỏe tổng thể và khởi phát các triệu chứng nghiêm trọng, chẳng hạn như co giật, ngất xỉu, mất ý thức…. Canxi là một khoáng chất quan trọng. Chất này tham gia vào hoạt động co cơ, xây dựng hệ thống xương, quá trình đông máu, dẫn truyền thần kinh và giải phóng hormone của cơ thể. Để ổn định nồng độ canxi máu, cơ thể cần được bổ sung đầy đủ canxi thông qua chế độ ăn uống, đảm bảo sự hấp thu tại ruột và bài tiết lượng canxi ở thận. Thông thường mức canxi huyết thanh được điều chỉnh chặt chẽ bởi những điều kiện bên trong, hóa học và vật lý bởi các hệ thống sống. Ở những bệnh nhân bị rối loạn chuyển hóa, mức canxi trong cơ thể có thể quá nhiều hoặc quá ít.
Nếu có sinh lý khỏe mạnh, nồng độ canxi ngoại bào được duy trì trong một phạm vi cụ thể, thường thông qua hoạt động của hormone tuyến giáp, thụ thể cảm nhận canxi và vitamin D. Rối loạn chuyển hóa canxi có thể làm giảm nồng độ canxi trong huyết tương (hạ canxi huyết) hoặc tăng nồng độ canxi huyết tương (tăng canxi huyết). Hạ canxi huyết là một dạng rối loạn chuyển hóa canxi thường gặp, thể hiện cho tình trạng suy giảm nồng độ canxi trong huyết thanh. Tình trạng này thường liên quan đến thiếu hụt vitamin D và bệnh lý ở tuyến cận giáp (cụ thể như suy tuyến cận giáp duy trì, suy tuyến vận giáp sau phẫu thuật, suy tuyến cận giáp giả, bệnh giả tuyến cận giáp). Phạm vi bình thường là 2,1 đến 2,6 mmol / L (8,8 đến 10,7 mg / dl, 4,3 đến 5,2 mEq / L ), dưới 2,1 mmol / l là hạ canxi máu. Ở mức độ nhẹ, bệnh phát triển chậm và không có triệu chứng. Những trường hợp nặng có thể gặp các triệu chứng sau:
Hạ canxi huyết là tình trạng nghiêm trọng, cần được cấp cứu khẩn cấp để tránh ngừng tim. Hạ canxi huyết xảy ra khi nồng độ canxi trong máu suy giảm, thường do bệnh ở tuyến cận giápTăng canxi huyết là tình trạng nồng độ canxi trong huyết thanh tăng cao. Tương tự như hạ canxi huyết, bệnh lý này không có triệu chứng, phát triển chậm và không nghiêm trọng ở giai đoạn đầu. Triệu chứng đe dọa đến tính mạng khi bệnh tiến triển nặng. Phạm vi bình thường là 2,1 đến 2,6 mmol / L (8,8 đến 10,7 mg / dl, 4,3 đến 5,2 mEq / L ), hơn 2,6 mmol / L là tăng canxi máu. Trong giai đoạn nặng, tăng canxi huyết làm khởi phát những triệu chứng nguy hiểm sau:
Hầu hết những trường hợp tăng canxi huyết do ung thư và cường cận giáp nguyên phát. Những nguyên nhân khác gồm nhiễm độc vitamin D, đa sản nội tiết (MEN), bệnh lao, bệnh Paget xương, bệnh sarcoidosis, dùng một số loại thuốc như lithium và hydrochlorothiazide. Triệu chứng và dấu hiệu nhận biết rối loạn chuyển hóa canxi khác nhau ở mỗi người (tùy thuộc vào nồng độ canxi trong huyết thanh). Ở những trường hợp nhẹ, canxi huyết tăng hoặc hạ đều không gây triệu chứng, bệnh diễn tiến chậm, không làm ảnh hưởng đến sức khỏe. Tuy nhiên sau một thời gian tiến triển, tăng canxi huyết và hạ canxi huyết làm khởi phát các triệu chứng nghiêm trọng, đe dọa đến tính mạng của bệnh nhân. Tuy nhiên so với tăng canxi huyết, các triệu chứng hạ canxi huyết khó chịu hơn. Triệu chứng chung
Hạ canxi huyết
Những triệu chứng thần kinh cơ của hạ canxi huyết xảy ra do tăng khả năng đáp ứng khi canxi giảm tương tác với kênh natri. Giảm lưỡng cực khi lượng canxi giảm xuống (do canxi ức chế khử cực của thần kinh và cơ, ngăn chặn các kênh natri). Tăng canxi huyết Những triệu chứng thần kinh cơ của tăng canxi huyết là do sự tương tác của canxi với kênh natri tăng lên dẫn đến hiệu ứng chuyển động cơ thể tiêu cực. Đau xương, yếu cơ, giảm phản xạ, buồn nôn và nôn là dấu hiệu nhận biết tăng canxi huyết
Rối loạn chuyển hóa canxi khởi phát do nhiều nguyên nhân, bao gồm: Rối loạn chuyển hóa canxi ở dạng hạ canxi huyết thường do suy tuyến cận giáp. Hormone tuyến cận giáp (PTH) có chức năng điều chỉnh canxi. Mức PTH tăng lên để phản ứng với mức canxi thấp; mức canxi cao thì sự bài tiết PTH sẽ giảm. Khi hormone tuyến cận giáp giảm hoặc hoạt động không hiệu quả, cơ thể mất chức năng điều hòa và gây hạ canxi huyết. Một số nguyên nhân khác:
Tăng canxi huyết chủ yếu do những bệnh lý ác tính và cường cận giáp nguyên phát.
Rối loạn chuyển hóa canxi là bệnh lý nguy hiểm, các triệu chứng đe dọa đến tính mạng của bệnh nhân. Việc không điều trị và cấp cứu kịp thời có thể gây ngừng tim và tử vong. Chính vì thế bệnh nhân bị tăng/ giảm canxi huyết cần được đưa đến bệnh viện ngay khi khởi phát các triệu chứng đầu tiên. Thông thường chẩn đoán rối loạn chuyển hóa canxi bao gồm kiểm tra nồng độ canxi ion hóa và nồng độ canxi đã hiệu chỉnh. Lượng canxi hoạt tính sinh học cơ thể thay đổi theo nồng độ albumin huyết thanh. Đây là một loại protein liên kết với canxi. Tổng lượng canxi điều chỉnh có thể được xác định nếu biết mức albumin. Ngoài ra mức độ canxi ion hóa được sử dụng làm thước đo cho tổng số canxi.
Mức canxi hiệu chỉnh dựa trên albumin: Canxi hiệu chỉnh (mg/ dL) = Tổng canxi đo được (mg/ dL) + 0,8 * (4,0 – albumin huyết thanh [g / dL]). Ngoài ra rối loạn chuyển hóa canxi được phát hiện sớm thông qua kết quả điện tâm đồ (tăng canxi huyết làm thay đổi điện tâm đồ tương tự như nhồi máu cơ tim) và kiểm tra triệu chứng lâm sàng. Ở những trường hợp khẩn cấp, bệnh nhân được dùng thuốc kiểm soát triệu chứng ngay sau khi kiểm tra tình trạng. Thông thường, bệnh nhân được yêu cầu dùng thuốc để điều trị các rối loạn chuyển hóa canxi. Một số liệu pháp cũng được chỉ định dựa trên tình trạng. Dựa trên tổng mức canxi đo được, người bệnh được chỉ định một số loại thuốc sau: Hạ canxi huyết
Tăng canxi huyết Dùng thuốc lợi tiểu và chất lỏng (liệu pháp ban đầu)
Khi dùng liệu pháp ban đầu, cần thận trọng để ngăn ngừa suy giảm magie và kali. Thông thường canxi huyết thanh có thể giảm 1-3 mg / dL trong vòng 24 giờ. Bisphosphonates và calcitonin (liệu pháp bổ sung) Calcitonin có tác dụng tăng bài tiết canxi qua nước tiểu bằng cách ức chế quá trình tái hấp thu canxi ở thận và ngăn chặn quá trình hủy xương. Ngoài ra thuốc này còn có tác dụng ngăn ngừa tăng canxi huyết tái phát. Thuốc Calcitonin thường được chỉ định cho những bệnh nhân tăng canxi huyết nghiêm trọng, đe dọa đến tính mạng, kết hợp với bisphosphonat, thuốc lợi tiểu và bù nước. Liều khuyến cáo: Tiêm bắp sâu hoặc tiêm tĩnh mạch qua da 4 đơn vị quốc tế mỗi kg, sau mỗi 12 giờ. Thuốc không được dùng dài hạn vì có thể gây sốc phản vệ và giảm đáp ứng. Tương tự như Pyrophosphat, Bisphosphonat có ái lực cao với xương, nhất là những vùng có chu chuyển xương cao. Thuốc được hấp thụ bởi những tế bào hủy xương, có tác dụng ức chế quá trình hủy xương của những tế bào hủy xương. Tùy thuộc vào tình trạng, bệnh nhân có thể được dùng Etidronate, Tiludronate, Pamidronate IV, Alendronate, Zoledronate và Risedronate (theo thứ tự hiệu lực). Bisphosphonat còn được dùng phổ biến cho những bệnh nhân bị tăng canxi huyết do ung thư. Điều này có thể giúp ngăn ngừa tăng canxi huyết dạng ác tính. Đối với bệnh nhân bị rối loạn chuyển hóa canxi do suy thận, bệnh nhân cần thận trọng, cân nhắc nguy cơ và lợi ích trước khi dùng Bisphosphonat. Bởi nhóm thuốc này chống chỉ định tương đối ở người bị suy thận. Bisphosphonates (như Alendronate) có tác dụng ngăn ngừa tăng canxi huyết dạng ác tínhNhững trường hợp đặc biệt có thể được điều trị với một số thuốc và liệu pháp khác, thường bao gồm:
Một số bước dưới đây có thể giảm nguy cơ rối loạn chuyển hóa canxi:
Rối loạn chuyển hóa canxi gồm hai dạng gồm hạ canxi huyết và tăng canxi huyết. Cả hai rối loạn này đều gây ra các triệu chứng đe dọa tính mạng, bệnh nhân ngừng tim và tử vong nếu không kịp thời điều trị. Chính vì thế, người bệnh cần chú ý theo dõi sức khỏe kết hợp các biện pháp ngăn ngừa để giảm thiểu. Điều trị khi có nồng độ canxi huyết tăng hoặc giảm.
|