Quân đội nhà nguyễn được tổ chức như thế nào năm 2024
Tính toán thiết kế cung cấp điện cho phân xưởng cưa gỗ của công ty cổ phần Phúc Thịnh TX. Đồng Xoài - Bình Phước Show
Related documents
Preview textTRƢỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT KHOA SỬ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆPCHUYÊN NGÀNH SƢ PHẠM LỊCH SỬTỔ CHỨC QUÂN ĐỘI NHÀ NGUYỄN(1802 - 1858)Giáo viên hƣớng dẫn : TH Lê Vy HảoSinh viên : Võ Thị ThơmMã số sinh viên : 1156020027Khóa học : 2011- 2015Bình Dƣơng, tháng 5 năm 2015 LỜI CẢM ƠNĐể hoàn thành đề tài em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với thầy cô khoa Sử trường Đại học Thủ Dầu Một đã nhiệt tình giảng dạy, cung cấp kiến thức cho em trong suốt thời gian học ở trường. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn Th Lê Vy Hảo đã tận tình hướng dẫn và góp ý cho em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận này. Qua đây em cũng xin gửi lời cám ơn đến người thân và gia đình đã động viên, ủng hộ, đến tất cả bạn bè đã giúp đỡ em trong việc tìm kiếm nguồn tài liệu tham khảo và đưa ra ý kiến đóng góp cho khóa luận của em được hoàn thiện hơn. Với khả năng hiểu biết còn có hạn, chắc chắn nội dung của khóa luận không tránh khỏi những hạn chế, kính mong nhận được sự hướng dẫn, góp ý từ quý thầy, cô. Một lần nữa em xin trân trọng cám ơn! Võ Thị Thơm NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................Bình Dương, ngày tháng năm GVPB (Ký tên) BẢNG TRA CỨU THUẬT NGỮTHUẬT NGỮ GIẢI THÍCHBiên chế Sắp xếp người và trang bị vũ khí, phương tiện kĩ thuật hợp lý trong một tổ chức quân đội nhằm bảo đảm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đó. Binh chủng Bộ phận hợp thành quân đội, có chức năng trực tiếp chiến đấu, có vũ khí, trang bị kĩ thuật và phương pháp tác chiến đặc thù. Bộ binh L chiực lượếm hong trặc giựữc ti gìn đất đai.ếp tiêu diệt sinh lực của đối phương, đánh Cấp hiệu Cấp bậc quân hàm để phân biệt chức vụ trong quân đội. Cấm binh Quân cơ động, bảo vệ trong kinh thành. Cơ binh Là lực lượng binh lính đóng giữ các tỉnh, trấn. Doanh Đơnkiến Vi vị ệtt Nam.ổ chức cao nhất của quân đội một số triều đại phong Đội Đơnkiến. vị tổ chức cơ sở của quân đội một số triều đại phong Kỵ binh Lính giáp chiến trên lưng ngựa. Long kỵ binh Lính bộ binh di chuyển bằng ngựa nhưng lúc giáp chiến lại xuống ngựa để chiến đấu. Ngũ Đơn vị tổ chức nhỏ nhất trong quân đội một số triều đại phong kiến Việt Nam. Pháo binh Lực lượng tác chiến bằng hỏa lực, thường được trang bị các loại pháo, và súng. Quân thường trực lực lượng quân chủ lực đóng ở các dinh. Quân túc vệ Loại quân bảo vệ nhà vua, triều đình và kinh đô. Thân binh Quân hầu cận, bảo vệ nhà vua. Tinh binh Quân gồm một số vệ, đội thuộc các phủ, huyện, nha... Thập Đơn vị tổ chức trong quân đội liền trên ngũ, dưới đội. Thổ binh Quân địa phương đượthành trì và đóng đồn ởc tuy vùng rừng núi và biên giớển từ thổ dân, dùng đểi. canh gác Thủy binh Quân có khảsông và vùng biể năng tiến hành các hoạt độn. ng chiến đấu trên Thuyền Đơn triều đạ vị i phong kitổ chức thếấn nhất của thủy quân trong quân đội các Tượng binh Quân chiến đấu trên lưng voi Vệ Đơn vịđội, dướ trong quân đội doanh. i một số triều đại phong kiến; liền trên Vệ binh Lực lượng quân lính đóng ở kinh đô Chƣơng 3: ĐÁNH GIÁ VỀ TỔ CHỨC VÀ VAI TRÒ CỦA QUÂN ĐỘI NHÀ - 2.2. Ở địa phương - 2.2. Ở những khu vực trọng yếu
1MỞ ĐẦU
3định Đại nam Hội điển Sử lệ”. Do biên soạn dưới hình thức “Hội điển” 1 nên giá trị lớn nhất của tác phẩm là trình bày một cách tập trung và phong phú những vấn đề như giai chế phẩm cấp, biên chế tổ chức, hình thức luyện tập,... của quân đội nhà Nguyễn; được ghi chép trong phần Bộ binh, bao gồm 40 quyển, từ 137 đến 178. Cụ thể, từ quyển 137 đến 139 nói về giai chế phẩm cấp từ đề đốc cho đến quan viên quản lý đồn ải, cửa bể. Quyển 140 - 143, trình bày về các doanh, vệ, đội trong cơ cấu quân hiệu ở kinh thành. Quyển 144 - 147, tập trung vào quân hiệu ở các tỉnh bao gồm quân hiệu trước và sau cải cách hành chính của Minh Mạng. Quyển 148, trình bày về việc tuyển quân, mộ quân và quyển 149, trình bày số quân. Quyển 150 - 152, nói về lệ, cấp bậc kinh binh, hiệu cờ và nhung phục ban võ. Quyển 153 - 157, phép kén chọn binh lính, binh khí và cách luyện tập, thao diễn. Quyển 158 - 162, lệ canh giữ ở kinh thành, tuần tra, kiểm soát vùng biên giới và hải đảo. Quyển 163 - 173, trình bày về việc khen thưởng, xử phạt đối với tướng lĩnh và binh sĩ. Quyển 174, nói về tượng chính bao gồm; ngạch voi, mua voi, chăn voi, vật dụng cho voi... Quyển 175, trình bày về ngạch ngựa, cách diễn tập cũng như trang thiết bị của ngựa trong phần mã chính. Quyển 176 - 178, chú trọng vào việc sát hạch quan viên, xét công trạng, lệ phân xử đối với những quan viên tự ý bỏ nơi nhậm chức, sai binh lính làm công việc riêng. Cho đến nay, “Khâm định Đại nam Hội điển Sử lệ” vẫn được xem là một “bộ từ điển” quý giá khi nghiên cứu về tổ chức quân đội nhà Nguyễn. Tuy nhiên, do là một công trình thông sử, nên tác phẩm không đưa ra những đánh giá về đặc điểm trong tổ chức và vai trò quân đội nhà Nguyễn đối với tiến trình phát triển của vương triều Nguyễn. Những vấn đề về việc tổ chức quân đội nhà Nguyễn còn được phản ánh rãi rác trong các bộ sử biên niên do các sử quan cũng như trí thức nhà Nguyễn biên soạn lại như “Đại Nam thực lục”, “Minh Mạng chính yếu”,... “Đại Nam thực lục” là bộ chính sử lớn do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, gồm hai phần: Tiền biên (thời kỳ các chúa Nguyễn) và Chính biên (thời kỳ 1 Ghi chép lại các điển pháp, quy chuẩn và các dữ kiện liên quan đến tổ chức và hoạt động của một triều đại, do nội các triều Nguyễn biên soạn vào giữa thế kỷ XIX. 4các vua nhà Nguyễn). Bốn kỷ đầu của phần Chính biên ghi chép về tình hình quân đội, cung cấp nhiều tư liệu có giá trị lịch sử về hình thức tuyển chọn binh lính đối với từng địa phương, hình thức luyện tập của binh sĩ qua các đời vua,... Mỗi kỷ nói về tổ chức quân đội của một đời vua. Kỷ thứ nhất - đời Gia Long từ 1778 đến 1819, trình bày về việc xây dựng và củng cố bộ máy tổ chức quân đội của Gia Long sau khi lên ngôi bao gồm việc phân cử các cấp chỉ huy cùng với đó là thiết lập các cơ quan trong bộ binh, phép tuyển chọn binh lính ở kinh thành và các tỉnh trong cả nước. Kỷ thứ hai - đời Minh Mạng từ 1820 đến 1840, ngoài những phần đã trình bày trong đời Gia Long, còn có các chính sách phát triển thủy quân của Minh Mạng, thể hiện qua các chỉ dụ cử người sang phương Tây học tập kĩ thuật quân sự, nhằm mục đích bảo vệ an ninh vùng biển. Kỷ thứ ba - đời Thiệu Trị từ 1841 đến 1847. Trong kỷ này, tác phẩm chỉ trình bày sơ lược về một số chỉ dụ của Thiệu Trị trong xây dựng quân đội trên cơ sở phát huy những thành tựu của triều đại trước đó. Kỷ thứ tư - đời Tự Đức từ 1847 đến 1883, ghi chép tỉ mĩ các sự kiện liên quan đến việc kén chọn, tập duyệt của binh lính, đặc biệt phần này còn đề cập đến tình trạng bảo quản trang thiết bị, đời sống của các binh sĩ. Mặc dù, trình bày khá chi tiết về nhiều vấn đề liên quan đến việc tổ chức quân đội nhưng các vấn đề về quân hiệu, cấp chỉ huy thì vẫn chưa được trình bày cụ thể trong tác phẩm này. Trong khi đó, “Minh Mạng chính yếu” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, cung cấp nguồn sử liệu phong phú về việc khảo hạch binh lính và các chính sách thưởng phạt đối với các binh sĩ đào ngũ,... được ghi chép cụ thể trong quyển 14 và quyển 20 - 25. Quyển 14 của tác phẩm này chủ yếu trình bày về binh chế bao gồm các chiếu chỉ, tấu trình xin hoãn việc đòi lính ở một số vùng và lệ thao diễn cho các binh chủng. Quyển 20 và 21, ghi chép về lệ thưởng, phạt đối với tướng lĩnh và binh sĩ trấn giữ ở biên ải. Quyển 22, tập trung nói về các tờ sớ báo cáo việc binh cả về mặt tổ chức lẫn trang bị, chế tạo vũ khí ở các xưởng vũ khố trong và ngoài kinh thành. Quyển 23, trình bày về việc xây dựng hệ thống phòng thủ của nhà Nguyễn ở trên đất liền lẫn hải đảo nhằm giữ vững an ninh bờ cõi của nước ta. Quyển 24 - 25, nói về vấn đề phủ biên và nhu viễn mà quan trọng nhất là các 6
7
9Chƣơng 1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA QUÂN ĐỘI CHÚA NGUYỄN (THẾ KỶ XVI - XVIII)
10Tình hình chính trị trong nước mới được tạm ổn chưa lâu thì xảy ra sự kiện phân chia Đàng Trong - Đàng Ngoài. Mầm móng của sự phân liệt bắt nguồn từ cuộc chiến Nam - Bắc triều. Năm 1545, “sau khi Nguyễn Kim bị mưu sát, Trịnh Kiểm được vua Lê đưa lên thay thế. Để giữ vững quyền hành ông đã tìm cách loại trừ phe cách của Nguyễn Kim. Trong tình hình đó, người con thứ của Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng xin vào trấn giữ vùng đất Thuận Hóa. Ở đây chúa Nguyễn tổ chức lại chính quyền, dần tách khỏi sự phụ thuộc họ Trịnh, chỉ nộp thuế theo lệ” [36; tr. 433 - 434]. Lấy cớ đó, năm 1627, họ Trịnh đem quân vào đánh Thuận Hóa. Cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn bắt đầu. Tình trạng nội chiến kéo dài cho đến cuối thế kỷ XVIII, gây nên hậu quả hết sức nặng nề cho đất nước, trước hết là tình trạng phân hóa về chính trị - xã hội ở hai Đàng. Ở Đàng Ngoài, song hành hai thế lực phong kiến vua Lê - chúa Trịnh. Tuy nhiên, sự tồn tại của vua Lê chỉ mang tính chất tượng trưng, còn mọi thực quyền đều nằm trong tay chúa Trịnh. Ở trung ương hình thành hai bộ phận là triều đình và phủ chúa. Triều đình đứng đầu vẫn là vua nhưng quyền hành đã bị thu hẹp. Trong khi đó ở phủ chúa, quyền lực được mở rộng bao gồm một số quan văn, võ cùng chúa bàn bạc, quyết định các chính sách của nhà nước. Về sau, chúa Trịnh còn cho đặt thêm 6 phiên chỉ đạo hoạt động của các bộ. Ở địa phương, Đàng Ngoài được chia thành 12 trấn, dưới trấn là phủ, huyện, châu, xã. Lực lượng quân đội họ Trịnh được tổ chức chặt chẽ, bao gồm một đội quân thường trực gọi là quân Tam Phủ và ngoại binh được tuyển từ 4 trấn xung quanh kinh thành. Về phía Đàng Trong, các chúa Nguyễn không ngừng mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam nhằm củng cố quyền lực. Chính quyền Đàng Trong chia thành 12 dinh, dưới dinh là phủ, huyện, tổng, xã. Trên cơ sở đó, quân đội của chúa Nguyễn được tổ chức chặt chẽ, bao gồm quân thường trực ở trung ương và quân thuộc binh ở địa phương, được bổ sung thường xuyên và trang bị vũ khí đầy đủ. Tuy nhiên, từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, chính quyền Trịnh - Nguyễn bắt đầu cuộc nội chiến. Để phục vụ nhu cầu chiến tranh, hai thế lực phong kiến, đặc biệt là các chúa Nguyễn đã sớm có ý thức xây dựng lực lượng quân đội hoàn thiện. 12Hữu trung bộ 10 45/thuyền 450 người Tiền trung bộ 10 45/thuyền 450 người Hậu trung bộ 10 45/thuyền 450 người Bảng 1: Thống kê số lượng thuyền và binh lính trong mỗi cơ. Nguồn: [7; tr. 186]. Tiếp đến là đội, đứng đầu là đội trưởng và có cai đội phụ quản. Số binh lính trong mỗi đội cũng giống như cấp cơ không có sự thống nhất, có đội có 300 lính, nhưng có đội chỉ 135 lính. Sự chênh lệch đó được thể hiện cụ thể như sau: Đội Thuyền Binh lính Tổng cộng Tả trung bộ 5 45/thuyền 225 người Tả kiên bộ 3 45/thuyền 135 người Hữu thủy 5 59/thuyền 295 người Tiền thủy 5 60/thuyền 300 người Bảng 1: Thống kê số lượng thuyền và binh lính trong mỗi đội. Nguồn: [7; tr. 186] Bên cạnh, quân túc vệ và quân chính quy thường trực, trong quân đội chúa Nguyễn còn có lực lượng quân đội địa phương gọi là Thổ binh (còn gọi là Tạm binh hay Thuộc binh) đông đảo. Thổ binh có nhiệm vụ bảo vệ vùng đất mới từ dinh Quảng Nam trở vào và trấn áp các lực lượng chống đối của nước Chiêm Thành, Chân Lạp ở phía Nam. Binh lính trong đội quân này không được hưởng chế độ bổng lộc, tiền lương mà chỉ được miễn trừ sưu thuế. Ngoài ra, trong quân đội chúa Nguyễn còn có các đội binh lính nhỏ dùng để sai vặt hoặc canh giữ như đội cắt cỏ ngựa, đội coi giữ từ đường, đội coi giữ các phủ, vườn, kho, lăng mộ, văn miếu,... GS. Phan Huy Lê ghi nhận trách nhiệm của các địa phương trong việc cung cấp các loại lính này như sau: “Riêng ở 6 huyện Hương Trà, Quảng Điền, Phú vang, Hải lăng, Đăng Xương, Minh Linh ở Thuận Hóa phải cung cấp lính cắt cỏ voi, cắt cỏ ngựa và lính quét dọn chuồng voi ngựa, cứ 100 suất đinh lấy 2 suất lính, 50 suất đinh lấy 1 suất lính, xã nào dưới 50 đinh phải nộp tiền thay mỗi người 30 đồng tiền” [16; tr. 132]. Những binh lính này đều được triều đình trả lương hàng tháng giống như quân đội chính quy thường trực. Về binh chủng, quân đội chúa Nguyễn bao gồm bộ binh, thủy binh, pháo binh, tượng binh. Trong đó, bộ binh, thủy binh là những binh chủng được các chúa 13Nguyễn chú trọng phát triển, trang bị đầy đủ các loại vũ khí và thường xuyên tổ chức luyện tập, rèn luyện kĩ năng chiến đấu. Lực lượng thủy binh rất mạnh, từng đẩy lùi chiến hạm của Hà Lan. Thuyền chiến thời kỳ này cũng khá lớn, mỗi thuyền có thể được trang bị đến 30 mái chèo. Thuyền được chế tạo rất tinh xảo, trang bị vũ khí đầy đủ với ba khẩu đại bác ở mũi và hai khẩu hai bên, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Xét về số lượng so với Đàng Ngoài số lượng thuyền chiến ở Đàng Trong ít hơn nhưng độ thiện chiến không hề thua kém. Trên cơ sở phát triển thủy quân, các chúa Nguyễn cho tổ chức các đội thủy binh ở vùng hải đảo để làm nhiệm vụ trông coi, bảo vệ như đội Hoàng Sa, Bắc Hải... Đội Hoàng Sa được thành lập dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Theo ghi chép của Lê Quý Đôn trong Phủ Biên tạp lục, ta biết được cách thức tổ chức của đội Hoàng Sa “Lúc đầu chúa Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất lấy người xã An Vĩnh sung vào” [7; tr. 123]. Đội này hoạt động chủ yếu ở vùng biển miền Trung có nhiệm vụ tuần tra, thu lượm các sản vật từ các tàu đắm, các hải sản quý từ các vùng biển phía Bắc quần đảo Hoàng Sa. Ngoài đội Hoàng Sa còn có đội Bắc Hải, thành lập khoảng cuối thế kỷ XVII, hoạt động chủ yếu ở phía Nam của Biển Đông, có nhiệm vụ tuần tra bảo vệ vùng biển từ Hoàng Sa đến Hà Tiên. Những người trong đội quân Bắc Hải không tính bao nhiêu suất, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi và được miễn tiền sưu tiền tuần đồn. Chính nhờ lực lượng đội thuyền này mà năm 1643, Nguyễn Phúc Tần mới có thể kịp thời đem thủy quân đánh đuổi tàu chiến của phương Tây. Trong quân đội các chúa Nguyễn còn có các đội pháo binh và tượng binh. Năm 1653, “chúa Nguyễn tổ chức 4 đội pháo cơ, mỗi cơ có 6 thuyền với số lượng lên tới 1000 người” [16; tr. 162]. Hàng năm các chúa Nguyễn thường tổ chức những buổi thao diễn chung cho cả bộ binh, thủy binh, tượng binh, lập ra những trường bắn, trường tập voi, tập ngựa để cho binh lính luyện tập. Nhờ đó, quân đội chúa Nguyễn ngày càng hoàn chỉnh hơn. 1.2. Phép kén chọn và cách luyện tập Để có được đội quân mạnh, chúa Nguyễn đã cố gắng trong việc xây dựng chính sách tuyển chọn thuyền, ngựa cũng như binh lính một cách nghiêm ngặt. |