Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước năm 2024

(LLCT) - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là mục tiêu lớn của Đảng và Nhà nước ta, song để đạt được các tiêu chí cơ bản theo Tổ chức phát triển công nghiệp (UNIDO, năm 2013) đưa ra là thử thách với Việt Nam. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một bước tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Bài viết phân tích các điều kiện để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030.

Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước năm 2024

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nước ta_Ảnh:baotaichinh.vn

1. Khái quát về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo, nhằm xây dựng Việt Nam thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.

CNH, HĐH theo định hướng XHCN ở nước ta gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của quá trình CNH, HĐH. Tiến hành CNH, HĐH đi đôi với giữ vững độc lập tự chủ, mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; dựa vào nguồn lực trong nước là chính, tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài; xây dựng nền kinh tế mở năng động, chủ động hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả. Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Khoa học công nghệ là động lực chủ yếu để tiến hành CNH, HĐH, kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quan trọng nhất, ở những ngành nghề mà Việt Nam có thế mạnh. Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cao nhất; lấy tăng năng suất lao động là thước đo để xác định phương án phát triển của ngành, địa phương và quốc gia; lựa chọn đầu tư vào những lĩnh vực khoa học công nghệ có tác động tới sự phát triển đất nước. Phát triển kinh tế đi đôi với xây dựng nền quốc phòng, an ninh hiện đại.

Trong chặng đường phát triển đất nước những năm qua, Việt Nam đã tiến hành CNH, HĐH trong bối cảnh tình hình chính trị, kinh tế quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, mặc dù vậy, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành quả quan trọng, kinh tế giữ được mức độ tăng trưởng khá; kim ngạch xuất khẩu tăng qua các năm, hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh...

Những thành tựu đó có được là nhờ kết quả của việc triển khai các chính sách phát triển kinh tế đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước và xu thế phát triển của thế giới.

Thị trường nội địa ngày càng được mở rộng và đáp ứng đầy đủ hơn. Nhiều mặt hàng xuất khẩu đã qua chế biến, chế tác với mức độ khác nhau, nên đã được mở rộng và ở một số nơi đã chiếm lĩnh được thị trường. Xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp liên tục tăng cả về số lượng và giá thành sản phẩm và mở rộng được thị trường ở những nước yêu cầu cao. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu cũng chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, tăng nhập khẩu các mặt hàng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, xuất khẩu, giảm nhập khẩu các mặt hàng không thiết yếu, trong nước sản xuất được.

Tuy vậy, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn những hạn chế, tác động đến tiến trình thực hiện mục tiêu CNH, HĐH:

Tốc độ tăng trưởng GDP có chiều hướng chậm lại, các động lực tăng trưởng đã dần đạt “tới hạn”; chất lượng tăng trưởng thấp, thiếu bền vững; hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao; động lực tăng trưởng chủ yếu từ tăng trưởng vốn đang dần thu hẹp, khi năng suất lao động ở mức thấp so với các nước trong khu vực và không đồng đều giữa các ngành, lĩnh vực; đóng góp của TFP (năng suất các nhân tố tổng hợp) còn nhiều hạn chế so với khu vực và thế giới.

Nền kinh tế vẫn phát triển theo chiều rộng, sản xuất công nghiệp tập trung nhiều về gia công, lắp ráp; tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị chưa đạt yêu cầu phát triển, nguyên liệu đầu vào của nhiều ngành sản xuất phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu là chủ yếu. Sức cạnh tranh của một số sản phẩm công, nông nghiệp trên thị trường quốc tế còn thấp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, cơ cấu sản phẩm tuy thay đổi theo hướng tích cực nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu đặt ra;

Nhiều ngành công nghiệp ở nước ta đến nay vẫn không đủ sức cạnh tranh quốc tế, ngay cả đối với các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam. Một trong những nguyên nhân là do chưa lựa chọn được các ngành công nghiệp ưu tiên một cách phù hợp; các chính sách ưu đãi chưa đủ mạnh để tạo động lực cho ngành công nghiệp ưu tiên có điều kiện phát triển.

2. Điều kiện thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030

2.1. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hợp lý

Để có những điều kiện thiết yếu cho quá trình tiến hành CNH, HĐH thành công, nhất là trong bối cảnh mới của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các quốc gia cần tạo dựng môi trường thuận lợi để phát triển công nghiệp, gồm: nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định; cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển; nguồn nhân lực chất lượng cao; môi trường kinh doanh thông thoáng, thuận lợi.

Ổn định kinh tế vĩ mô chỉ có được khi toàn bộ các chính sách và các cơ quan quản lý nhà nước đều hướng tới mục tiêu giảm thiểu biến động kinh tế vĩ mô, trong đó quan trọng nhất là duy trì khả năng dự báo môi trường vĩ mô, duy trì trạng thái hợp lý và bền vững các biến số chủ chốt của kinh tế vĩ mô như: lạm phát thấp và ổn định, lãi suất dài hạn thấp, tỷ lệ nợ quốc gia/GDP thấp và bền vững (gồm cả nợ trong nước và nợ nước ngoài), thâm hụt ngân sách thấp và ổn định tiền tệ, tỷ giá ổn định và phù hợp. Ổn định kinh tế vĩ mô có mối liên hệ chặt chẽ và giúp tăng cường niềm tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người tiêu dùng, nhờ đó gia tăng đầu tư, giảm thiểu các cú sốc, tiến tới tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội ở mức cao, ổn định.

Hiện nay, các nền kinh tế trên thế giới gặp phải nhiều biến động khó lường, vấn đề theo đuổi mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô được đặt ra càng trở nên cấp thiết. Các chính phủ trong quá trình vận hành nền kinh tế cần kiên định, quyết tâm bảo đảm các lợi ích dài hạn, không hy sinh lợi ích dài hạn cho các mục tiêu ngắn hạn, không theo đuổi các mục tiêu tăng trưởng ngắn hạn dẫn tới những hậu quả bất lợi cho nền kinh tế trong dài hạn. Đây là điều kiện cần để tiến hành mục tiêu CNH, HĐH đất nước.

Tiến hành CNH, HĐH đi đôi với giữ vững độc lập tự chủ, mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; dựa vào nguồn lực trong nước là chính, tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài; xây dựng nền kinh tế mở năng động, chủ động hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.

2.2. Phát triển ngành công nghiệp ưu tiên

Trong điều kiện nước ta còn nhiều khó khăn, để tiến hành CNH, HĐH cần tập trung phát triển các ngành công nghiệp, nhưng trước hết phải lựa chọn được những ngành công nghiệp ưu tiên. Do đó, cần có một số tiêu chí để phân biệt những ngành công nghiệp ưu tiên và không ưu tiên, đó là:

Những ngành công nghiệp có vị trí quan trọng trong nền kinh tế, có tác động mạnh hoặc làm nền tảng đối với nhiều ngành khác (nâng cao năng suất, áp dụng công nghệ kỹ thuật mới, có khả năng chuyển giao công nghệ); tận dụng được lợi thế cạnh tranh của đất nước và cơ hội trong quá trình hội nhập quốc tế; giải quyết được các điểm yếu hoặc thách thức đối với quốc gia trong từng thời kỳ; các ngành phù hợp với thị trường và xu thế phân công quốc tế, được các nhà đầu tư và tài trợ quan tâm, có thể thu hút đầu tư mạnh trong các giai đoạn tới hoặc đáp ứng nhu cầu thiết yếu đối với quốc kế dân sinh, gắn kết và phục vụ đắc lực cho phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, phục vụ quốc phòng, an ninh. Các ngành có tác động rõ nét về chất lượng, hiệu quả đối với toàn ngành công nghiệp và nền kinh tế: ngành thâm dụng công nghệ, có giá trị gia tăng cao; các ngành có tác động mang tính dẫn dắt (tăng sản lượng, mở rộng xuất khẩu, tạo việc làm, phát triển được nhiều doanh nghiệp, phù hợp với trình độ nguồn nhân lực).

2.3. Phát triển ngành công nghiệp vật liệu

Ngành công nghiệp vật liệu được coi là ngành công nghiệp nền tảng, cung cấp nguyên, vật liệu thiết yếu cho các ngành công nghiệp khác, nhưng đến nay vẫn kém phát triển, không đáp ứng được yêu cầu của sản xuất công nghiệp. Để chủ động nguồn nguyên, vật liệu cho sản xuất công nghiệp, trong vòng 5 đến 10 năm nữa, ngành công nghiệp vật liệu cần được đầu tư để trở thành một trong những ngành ưu tiên phát triển cùng với một số nhóm ngành đã được lựa chọn là ngành công nghệ thông tin; công nghiệp chế biến, chế tạo; điện tử và viễn thông; tự động hóa; năng lượng mới và năng lượng tái tạo.

Cần phát triển ngành công nghiệp vật liệu mới. Hầu hết các sản phẩm vật liệu ở nước ta không đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Trên thực tế, ngành công nghiệp vật liệu được coi là ngành công nghiệp nền tảng, cung cấp nguyên vật liệu thiết yếu cho các ngành công nghiệp khác, giúp giảm nhập siêu, nhưng hầu hết vật liệu cho các ngành công nghiệp ở Việt Nam hiện nay đều phải nhập khẩu, dẫn đến giá trị thực tế mà Việt Nam thu được trên một đơn vị sản phẩm là rất nhỏ. Một nền sản xuất công nghiệp phát triển chỉ có được khi công nghiệp vật liệu phát triển để tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu, thực hiện những khâu phức tạp có giá trị gia tăng cao.

Công nghiệp vật liệu nói chung và vật liệu chế tạo nói riêng ở nước ta chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất công nghiệp do một số nguyên nhân: Ở tầm vĩ mô, Việt Nam quá chú trọng yếu tố giải quyết tăng trưởng trong ngắn hạn mà chưa quan tâm nhiều đến tăng trưởng trong dài hạn; thiếu sự quan tâm của các cấp; trình độ đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ còn hạn chế, chưa hỗ trợ đắc lực sự phát triển của ngành công nghiệp vật liệu. Ở tầm vi mô, ngành công nghiệp vật liệu mới đòi hỏi trình độ công nghệ cao nên yêu cầu vốn lớn và thời gian thu hồi vốn dài, trong khi đa số các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ, vốn ít, lại gặp phải sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp nước ngoài. Nguồn nhân lực xã hội chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng, thiếu nghiêm trọng lao động trình độ cao, đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành công nghiệp vật liệu mới.

Trong bối cảnh các hiệp định thương mại giữa Việt Nam với các nước và với các tổ chức quốc tế đều gắn nguồn gốc vật liệu với các ưu đãi về thuế suất, vì vậy yêu cầu về sản xuất vật liệu phục vụ cho công nghiệp lại càng trở nên cấp thiết.

2.4. Phát triển công nghệ sinh học

Lĩnh vực công nghệ sinh học luôn được các nước phát triển đặc biệt quan tâm, đầu tư, đem lại nhiều kết quả quan trọng trong các lĩnh vực: y dược, nông nghiệp, thủy sản, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu...

Sự phát triển công nghệ sinh học và những công nghệ tích hợp nhiều công nghệ khác nhau với sinh học để tạo ra sản phẩm mới đang là hướng ưu tiên của nhiều nước. Xét về mức độ đầu tư, hiệu quả kinh tế và những ứng dụng phục vụ con người, công nghệ sinh học và những công nghệ tích hợp với ngành sinh học được dự báo sẽ thay thế vị trí thứ nhất của công nghệ thông tin.

2.5. Phát triển công nghiệp môi trường

Ô nhiễm môi trường là vấn đề cản trở lớn đến phát triển kinh tế. Phát triển công nghiệp môi trường phải trở thành một ngành kinh tế quan trọng khi thực hiện chiến lược phát triển CNH, HĐH và bền vững. Xây dựng chính sách nhằm hỗ trợ, thúc đẩy về phát triển công nghiệp môi trường trong nước, đồng thời khuyến khích và huy động các nguồn lực trong và ngoài nước tham gia đầu tư phát triển công nghiệp môi trường; khuyến khích các tổ chức và doanh nghiệp tham gia phát triển công nghiệp môi trường và sử dụng bền vững tài nguyên.

Ngành công nghiệp môi trường phải huy động được sự tham gia của khu vực tư nhân để khu vực này đóng vai trò lớn hơn trong việc cung cấp các sản phẩm và dịch vụ bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên thiên nhiên. Trong quá trình thực hiện CNH, HĐH, khu vực tư nhân ngày càng có vai trò quan trọng, sự tham gia ngày càng sâu của khu vực tư nhân góp phần giảm bớt áp lực về ngân sách nhà nước bằng cách cung cấp tài chính cho đầu tư cơ sở hạ tầng môi trường.

Cần tăng đầu tư phát triển hạ tầng khoa học, công nghệ cho những ngành công nghệ cao, nông nghiệp sạch và những ngành sản xuất có ứng dụng công nghệ cao. Chính phủ đầu tư trực tiếp cho các công trình công cộng để phục hồi đất, nước, không khí bị ô nhiễm; tạo cơ chế khuyến khích các nhà sản xuất, cộng đồng cùng tham gia quản lý hệ sinh thái.

Cần cải thiện việc quản trị chất lượng môi trường và tài nguyên thiên nhiên theo hướng tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin; thiết lập hệ thống bảo đảm an toàn sinh thái và tiêu chuẩn môi trường; từng bước nâng cao tiêu chuẩn môi trường và hiệu lực thi hành các tiêu chuẩn này bằng công cụ thuế, kết hợp với biện pháp hành chính, xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường.

Ở nước ta, các dữ liệu quan trắc môi trường còn hạn chế và không phù hợp với những tiêu chuẩn mới về môi trường, là rào cản đáng kể cho sự phát triển và bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Cần công khai và minh bạch hóa thông tin về môi trường để có những giải pháp xử lý kiên quyết đối với tập thể và cá nhân có những hành vi che giấu sai phạm, làm tổn hại đến chất lượng môi trường.

2.6. Phát triển công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn

Nâng cao năng suất lao động của khu vực nông nghiệp dựa trên tiến bộ khoa học công nghệ và gắn công nghiệp với phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại. Năng suất lao động nông nghiệp tăng là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của quá trình CNH, HĐH.

Việt Nam có nhiều lợi thế để phát triển nông nghiệp, nhất là những sản phẩm có tính đặc thù của khu vực nhiệt đới. Vì vậy, cần đẩy mạnh và đa dạng hóa các sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là những sản phẩm Việt Nam có lợi thế cạnh tranh.

Từ nay đến năm 2030, những sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới vẫn là thế mạnh cạnh tranh nổi bật của Việt Nam trên thị trường thế giới. Duy trì thế mạnh này vừa giúp tạo nền tảng ổn định kinh tế, xã hội trong nước, vừa mở ra cơ hội thâm nhập thị trường thế giới ở các phân khúc cao hơn. Để nông nghiệp công nghệ cao phát triển nhanh và bền vững, cần gắn việc quy hoạch khu vực sản xuất chuyên canh nông nghiệp với việc thực hiện công nghiệp hóa ở các địa phương có lợi thế phát triển những sản phẩm nông nghiệp, từng bước thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp theo hướng hiện đại.

Công nghiệp chế biến ở nước ta chưa phát triển hoàn chỉnh thành các cụm gắn với vùng nguyên liệu và có giá trị gia tăng thấp. Những yếu kém của hệ thống kho bãi, vận chuyển, thanh toán và các dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp làm tăng giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó, do việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tùy tiện hoặc chưa được hướng dẫn của người nông dân dẫn đến nhiều sản phẩm nông nghiệp không an toàn, gây ô nhiễm môi trường, làm giảm đáng kể khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam.

Để nâng cao giá trị của sản xuất nông nghiệp, cần tạo cơ chế khuyến khích các ngành công nghiệp hỗ trợ, ứng dụng tiến bộ khoa học cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao, đẩy mạnh hơn nữa công tác khuyến nông, từng bước loại bỏ sự lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật trong nông nghiệp, hướng tới nền nông nghiệp sạch bằng cách tăng cường sử dụng sản phẩm sinh học, an toàn, hướng ra xuất khẩu.

2.7. Đổi mới chính sách đất đai

Trong nhiều năm qua, vấn đề đất đai được sử dụng trong công nghiệp có nhiều bất cập. Nhiều diện tích đất nông nghiệp đã chuyển đổi thành đất phục vụ cho sản xuất công nghiệp, tuy nhiên nhiều nơi không phát huy hiệu quả, thậm chí gây lãng phí. Để khắc phục những yếu kém trong sử dụng đất, cần rà soát, bổ sung, hoàn thiện chính sách đất đai dành cho phát triển công nghiệp hợp lý theo vùng và lãnh thổ, theo hướng tiết kiệm diện tích đất nông nghiệp, dành đủ diện tích đất để trồng cây nông nghiệp bảo đảm an ninh lương thực, chỉ chuyển đổi một số diện tích đất sản xuất không tạo giá trị gia tăng cho sản xuất nông nghiệp sang đất sản xuất công nghiệp và dịch vụ.

Bố trí hợp lý các khu công nghiệp, khu chế xuất trên các vùng lãnh thổ trong cả nước; phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghiệp hiện có và đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo hình thức cụm, nhóm sản phẩm, tạo thành các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn, hiệu quả cao; có chính sách ưu tiên xây dựng các khu công nghệ cao, thân thiện với môi trường; hình thành và phát triển các khu kinh tế tổng hợp ven biển và các khu kinh tế cửa khẩu, tập trung phát triển một số đặc khu kinh tế.

Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo hướng xây dựng các khu vực sản xuất cây nông nghiệp có giá trị cao, gắn với khu chế biến các sản phẩm nông nghiệp hướng ra xuất khẩu.

Trong lập quy hoạch và phát triển kinh tế cần nhất quán xây dựng các khu công nghiệp trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế liên vùng, liên tỉnh, phát huy lợi thế của từng địa phương.

Cần có sự đồng bộ giữa quy hoạch đất nông nghiệp được chuyển đổi thành đất công nghiệp; thống nhất, đồng bộ việc quy hoạch phát triển các khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghiệp, cụm công nghiệp với quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư nông thôn, hạ tầng kinh tế - xã hội cũng như phù hợp với điều kiện hạ tầng kinh tế - xã hội, khả năng và nhu cầu phát triển thực tế.

Nhiều khu, cụm công nghiệp hiện nay bám theo các trục giao thông và nằm sát khu dân cư, gây nên tình trạng ách tắc giao thông, nhiều nơi gây ô nhiễm cho các khu dân cư. Do vậy, cần tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và chính sách đất đai; xây dựng và ban hành cơ chế chính sách phát triển các khu công nghiệp một cách nhất quán, ổn định, không gây khó khăn cho doanh nghiệp đầu tư xây dựng các khu công nghiệp, đồng thời bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người dân, nhất là vấn đề giải quyết việc làm nâng cao thu nhập cho người dân sau khi bị thu hồi đất sản xuất.

Cần bảo đảm diện tích nông nghiệp để giữ vững an ninh lương thực. Rà soát lại quy hoạch chi tiết các khu công nghiệp, bảo đảm tính kết nối với các khu vực xung quanh, có quỹ đất dành cho nhu cầu về nhà ở và các công trình phụ trợ bảo đảm sinh hoạt, vui chơi, giải trí, học hành, chữa bệnh của người lao động và gia đình trong khu công nghiệp. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chính sách tái định cư, bảo đảm ổn định cuộc sống, sinh kế của người dân sau khi bị thu hồi đất sản xuất tại khu vực quy hoạch phát triển khu công nghiệp. Thực hiện tốt công tác đền bù, giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ triển khai, thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp, dịch vụ theo hướng gia tăng giá trị sử dụng trên diện tích đất.

Tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm khắc phục, hạn chế sự chồng chéo, bảo đảm chính sách ổn định, nhất quán và đơn giản về thủ tục hành chính nhằm khuyến khích phát triển các khu công nghệ cao, khu sản xuất nông nghiệp sạch ứng dụng công nghệ cao; xây dựng cơ chế chính sách ưu đãi đặc thù, cụ thể cho các khu công nghệ cao; hỗ trợ đắc lực những điều kiện cần thiết, nhất là về đất đai và vốn để sớm đưa các đặc khu kinh tế vào khai thác và phát huy cao nhất hiệu quả sử dụng đất.