Nguyễn tất thành đã rời tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước với tên gọi là gì
Bến cảng Nhà Rồng, nơi Bác Hồ rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. 1. Hành trình ra đi tìm đường cứu nước Ngày2 tháng 6năm1911, Nguyễn Tất Thành đến Cảng Nhà Rồng xin làm việc ở tàu Đô đốc Latusơ Tơrêvin của hãng vận tải Hợp nhất (Compagnie des Chargeurs réunis). Ngày 3 tháng 6 năm 1911, anh được giới thiệu và nhận vào làm phụ bếp trên tàu Đô đốc Latusơ Tơrêvin, nhận thẻ nhân viên của tàu với tên mới là Văn Ba. Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, với tên Văn Ba trong công việc là người phụ bếp chính thức lên đường sang Pháp. Không khoác áo thân sĩ, ra đi trong tư cách một người lao động, khởi nghiệp với đôi bàn tay trắng, nhưng lại có một ý chí mãnh liệt, một nghị lực phi thường, một mình với cuộc hành trình 30 năm đi tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. 2.Bước chuyển từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lê nin Từ bến cảng Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành đã đi qua Singapore, Colombo, vượt Hồng hải, qua Suez Pháp. Vòng quanh châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, châu Á qua các nước Bồ đào nha, Tây Ban nha, Algerie, Tunisie, cửa biển Đông Phi, qua Cong go, Dahomey, Guinée, Sénégal, vượt Đại Tây dương đến Hoa Kỳ, xuống Nam Mỹ, tới Arhentina…Tiếp đó, trở lại Anh, đến Pháp qua Đức, tới Liên xô, Trung Quốc, sang Thái Lan… tất cả hành trình hơn 30 nước. Là người dân thuộc địa, ra nước ngoài hòa mình vào cuộc sống lao động và đấu tranh của vô sản ở chính quốc, có gần 10 năm bôn ba khảo sát thuộc địa của đế quốc Anh, Pháp, Đức nên Người hiểu biết về bản chất chung và màu sắc riêng của mỗi nước đế quốc. Nhờ vốn hiểu biết thực tế đó, cùng với tư duy độc lập, tự chủ, đã giúp Người không rơi vào các khuynh hướng cơ hội, nhưng cũng không đễ dàng chấp nhận một cách giáo điều, những công thức lý luận không phù hợp với thực tế các nước thuộc địa, nhất là các nước phương Đông. Cuối năm 1917 Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp vào lúc cuộc cách mạng tháng Mười Nga nổ ra và giành được thắng lợi, mở ra cho con đường giải phóng dân tộc, giành độc lập cho loài người. Nǎm 1919 tại Hội nghị hòa bình Véc-xây (Versailles) Pháp, thay mặt những người Việt Nam yêu nước, dưới ký tên Nguyễn Ái Quốc (tên mới của Nguyễn Tất Thành) đã gửi “Bản Yêu sách Tám điểm” đòi quyền bình đẳng về pháp lý và quyền tự do, dân chủ tối thiểu cho Nhân dân Việt Nam. Cuối năm 1919, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng duy nhất ở Pháp, tỏ ý quan tâm đến số phận các dân tộc thuộc địa và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Tháng 7 nǎm 1920 qua báo Nhân đạo (L'Humanité- Pháp), Nguyễn Ái Quốc đọc được tác phẩm “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I Lê nin. Nhờ đó, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ánh sáng cho con đường giải phóng dân tộc mình trong sự nghiệp giải phóng tất cả các dân tộc bị áp bức. Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III). Đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc: từ chủ nghã yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lênin, từ người yêu nước thành người cộng sản. 3. Quá trình hoạt động thực tiễn, lý luận, cụ thể hóa và vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn các dân tộc Trong quá trình tìm đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc đã đi qua các châu lục, khảo sát nhiều nước thuộc địa và những nước tư bản thời bấy giờ. Người đã tham gia nhiều hoạt động thực tiễn và lý luận rất sôi nổi như: tham gia Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa, viết bài và tham gia xuất bản báo (tờ Le Paria), viết bài tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lê nin về Việt Nam và các nước thuộc địa. Người đã tiếp xúc nhiều nhà tư tưởng nhưng tất cả chưa mang lại lời giải cho cách mạng Việt Nam, chỉ có Lê nin và Quốc tế III là ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, giải phóng thuộc địa, nên trong tác phẩm Đường Kách mệnh Người chỉ rõ:bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mac-Lê nin. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam phải đi theo con đường cách mạng Nga, tức là phải đặt nó trong quỹ đạo cách mạng vô sản. Con đường cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: dân tộc cách mệnh và thế giới cách mệnh. Đường Kách mệnh đã đặt cơ sở cho sự hình thành đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc của cách mạng Việt nam theo đường lối cách mạng vô sản; đánh dấu sự chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước từ cuối thế kỷ XIX cho đến những năm 20 của thế kỷ XX. Chính cương, Sách lượt vắn tắt và các văn kiện hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, do Nguyễn Ái Quốc thảo ra, đã đánh dấu sự hình thành cơ bản tư tưởng của Người về con đường cách mạng Việt Nam, trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, nguồn gốc tạo nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 4. Trở về Tổ quốc lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc Việt Nam Sau khi tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc đúng đắn, ngày 28/01/1941Nguyễn Ái Quốc đã vượt qua biên giới Việt – Trung, đặt chân lên mãnh đất địa đầu Tổ quốc. Người chủ trì Hội nghị Trung ương 8 (5/1941) Đảng ta chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp. Hội nghị chỉ rõ “sau khi đánh đuổi được Pháp – Nhật sẽ thành lập một nước Việt Nam dân chủ mới...”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã làm nên cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Người đã long trọng đọc bản Tuyên gôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Dân tộc Việt Nam từ thân phận nô lệ đã vươn lên làm chủ vận mệnh của mình. 5. Ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại của Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước - Ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, Người đã đặt nền móng cho lý luận cách mạng Việt Nam trong thời đại mới: Chấm dứt khủng hoảng về đường lối cứu nước. Tìm thấy đường lối phát triển đúng đắn cho dân tộc, phù hợp với tiến bộ của nhân loại và xu thế của thời đại. Hồ chí Minh đã đem ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin soi đường cho phong trào yêu nước, chủ ngĩa yêu nước truyền thống của Việt Nam vươn lên tầm thời đại. Trở thành biểu tượng sáng ngời trong hai cuộc kháng chiến lừng lẫy của dân tộc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong công cuộc kiến thiết và phát triển đất nước theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. - Quá trình ra đi tìm đường cứu nước đã hình thành chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh: Đó là sự tổng hòa của tư tưởng yêu nước Việt Nam chân chính; truyền thống, tinh hoa văn hóa dân tộc ta với hệ tư tưởng tiên tiến giai cấp công nhân mà chủ nghĩa Mác – Lênin là đại diện cốt yếu là tự do cho đồng bào, độc lập cho Tổ quốc. - Tìm ra con đường cứu nước chính là nguồn cội, nền tảng đem lại những thành tựu vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta: Hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945; Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu năm 1954; Chiến thắng 30/4/1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của công cuộc 35 năm đổi mới, đất nước ta chưa bao giờ có một “cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế trên thế giới” như ngày hôm nay. Hướng đến kỷ niệm 110 năm (05/6/1911- 05/6/2021), ngày ra đi tìm đường cứu nước của Người thanh niên Nguyễn Tất Thành, từ chuyến đi lịch sử Người đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam. Dù Người đã đi xa, nhưng Đảng ta, dân tộc ta nguyện sẽ mãi mãi học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, xây dựng thành công Nước Cộng hòa xã hội chủ nghiã Việt Nam với mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./. Sự kiện Nguyễn Tất Thành đi tìm đường cứu nước – ý nghĩa lịch sử và thời đại
(ĐCSVN) - Ngày 5/6/1911, từ Bến cảng Nhà Rồng, Chủ tịch Hồ Chí Minh - lúc này mang tên Nguyễn Tất Thành, bắt đầu cuộc hành trình ra nước ngoài tìm đuờng cứu nước, cứu dân. Đây là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lịch sử đấu tranh vì sự sinh tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam. Nhìn từ góc độ hội nhập quốc tế, bài viết hy vọng làm sáng tỏ thêm ý nghĩa lịch sử và thời đại của sự kiện lịch sử vĩ đại này. 1. Từ tuổi 13, Nguyễn Tất Thành đã khát vọng “muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp”, “muốn làm quen với nền văn minh Pháp”, nhưng không chỉ để thỏa mãn ước mơ hiểu biết của tuổi trẻ, mà là “muốn tìm xem ẩn giấu đằng sau” những gì đã làm nên văn minh và sức mạnh của phương Tây; muốn “xem cho rõ” sự “làm ăn ra sao” của những cường quốc mà các nhà yêu nước Việt Nam đương thời kì vọng có thể giúp đất nước mình thoát khỏi ách thống trị thực dân; và, “sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta” [1] . Với hành trang chủ nghĩa yêu nước-nhân văn Việt Nam và mục đích xác định trước, bằng lao động, Người bắt đầu cuộc hành trình sang phương Tây tìm con đường mới để cứu nước cứu, dân.
Trong khoảng thời gian này, không chỉ có Nguyễn Tất Thành phát hiện ra cái mới, muốn làm quen, đi tìm và học cái đã tạo nên văn minh, sức mạnh của phương Tây để trở về mưu độc lập, tự cường cho dân tộc, giải phóng cho đồng bào của mình. Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh là những người tiên phong như vậy. Mang chung hành trang là chủ nghĩa yêu nước - nhân văn Việt Nam và cùng mục đích, nhưng giữa hai Cụ Phan với Nguyễn Tất Thành có những khác nhau. Một bên là tìm, học cái mới mà dân tộc chưa có và xem đó như một chỗ dựa, một cứu cánh; một bên là muốn tìm hiểu giá trị thật của cái mới và cả cái ẩn giấu đằng sau nó; bên này chỉ mới tiến đến ở sự tiếp nhận, còn bên kia là đến tận nơi và xem cho rõ cách làm. Cho dù có cùng hành trang, cùng mục đích, nhưng sự khác nhau về tầm nhìn và phương pháp của họ đã tạo ra kết quả khác biệt. Bên này, là tiếp nhận và đưa về cái mới mà dân tộc chưa có nhưng không biết nó đã bắt đầu trở nên lỗi thời so với sự phát triển của lịch sử nhân loại. Bên kia với sự khảo sát trực tiếp, phân tích, so sánh giữa lý thuyết với kết quả thực tế của các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới (đã có đến thời điểm đó) để lựa chọn nhằm tiếp nhận những giá trị chung và mới của nhân loại đặng tìm ra con đường cứu nước, cứu dân thích hợp với hoàn cảnh cụ thể của nước nhà và tương thích với sự vận động, xu thế phát triển mới trong quá trình tiến hóa của loài người. Cũng vì vậy, những cố gắng cao nhất của hai cụ Phan cũng chỉ làm bùng phát một phong trào dân tộc, nuôi dưỡng ngọn lửa yêu nước trong nhân dân, bởi những cái được cho là chưa có và được xem là mới đối với dân tộc mà hai Cụ đưa về đã bị lịch sử nhân loại và chính phong trào cách mạng dân tộc vượt qua. Bằng lao động và hòa vào dòng chảy của các sự kiện trên thế giới, cuộc hành trình của Nguyễn Tất Thành được tiến hành trong gần một thập kỷ ở nước ngoài không chỉ để biết thế giới mà chính là quá trình học tập, khảo sát, nghiên cứu kỹ lưỡng nhằm thấu hiểu để chọn lọc và tiếp thu những giá trị văn hóa-văn minh của nhân loại. Thông qua quá trình của cuộc hành trình vĩ đại đến với các dân tộc, chủng tộc ở các châu lục, đặc biệt là trải qua thực tiễn đấu tranh cách mạng ở nhiều nước đã nâng cao trí tuệ, làm giàu văn hóa và mở rộng thế giới quan cho Người - từ tầm mức dân tộc đến nhân loại. Đó là cơ sở giúp cho Người thấu hiểu được sự tương đồng và khác biệt giữa triết lý phương Đông và phương Tây; đã nhận thấy nguồn gốc trực tiếp nỗi khổ đau chung của các dân tộc thuộc địa và những người lao động, không phân biệt chủng tộc, màu da, trên hành tinh này và đi tới khẳng định: Vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng con người không chỉ là nhu cầu của dân tộc và con người Việt Nam mà là của các dân tộc bị áp bức và nhân dân cần lao trên thế giới. Bằng trực tiếp khảo sát tại quê hương của các cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Anh và Mỹ), với trí tuệ thiên tài của mình, Nguyễn Tất Thành đã phát hiện và tiếp nhận “những lời bất hủ” mang giá trị chung của nhân loại về quyền dân tộc và quyền con người được ghi trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp. Đồng thời, Người cũng thấy rõ hạn chế giữa lý thuyết và thực tế mà nổi bật là tính chất “không đến nơi” của các cuộc cách mạng này. Những kết luận trên đây không phải chỉ là kết quả của sự trải nghiệm. Chỉ với tầm trí tuệ không ngừng được nâng cao, trên cơ sở được làm giàu về các giá trị văn hóa-văn minh nhân loại và với một tầm nhìn thế giới trong phân tích lý luận và kiểm nghiệm thực tiễn, Nguyễn Tất Thành mới có thể đúc rút thành những kết luận khoa học đúng đắn có giá trị quan trọng như vậy. Do đó, Người không chỉ dừng lại ở phân tích lý luận và thực tiễn để chọn lọc và thâu thái các giá trị văn hóa - văn minh nhân loại, mà còn trên cơ sở các kết luận đó, tìm lời giải đáp những vấn đề đang được đặt ra trong lịch sử tiến hóa của loài người. Đây chính là sự chuẩn bị - cả trên phương diện lý luận và thực tiễn để Người, không chỉ đi từ DÂN TỘC đến NHÂN LOẠI trong nhận thức các giá trị văn hóa - văn minh mà còn tiến tới năng lực phát hiện và nắm bắt được quy luật tiến hóa của lịch sử nhân loại, xu thế của THỜI ĐẠI bằng thế giới quan khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Đi từ Dân tộc đến nhân loại, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin là quá trình từ nhận thức cảm tính đến khoa học. Với thế giới quan khoa học và cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã phát hiện và nhận thức được quy luật tiến hóa, xu thế phát triển trong tiến trình đi lên của loài người và đi tới khẳng định: “Muốn cứư nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[2] .
Đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản và chỉ rõ “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành đợc thắng lợi hoàn toàn”[3] , Người đã chỉ rõ: cách mạng giải phóng dân tộc phải hướng đích tới sự giải phóng triệt để đối với con người theo quy luật tiến hóa tự nhiên của lịch sử nhân loại. ĐỘC LẬP DÂN TỘC phải đưa tới TỰ DO - HẠNH PHÚC cho con người. Với con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã chỉ ra, cách mạng Việt Nam hàm chứa sâu sắc các nội dung Dân tộc – Nhân loại và Thời đại, và do đó, với đường lối đúng đắn thuận theo quy luật tiến hóa của nhân loại, được sự ủng hộ của toàn dân và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, cách mạng Việt Nam đã hội đủ các yếu tố Thiên thời – Địa lợi- Nhân hòa đảm bảo cho sự thắng lợi. Với tất cả các ý nghĩa đó, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà nội dung là giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng con người là triết lý phát triển Việt Nam. Đây là nội dung căn bản nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, chi phối mọi hoạt động lý luận và thực tiễn của cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa, đem lại tự do, hạnh phúc cho con người. Tìm ra con đường cứu nước đúng đắn là công lao vĩ đại đầu tiên, là cống hiến lý luận sáng tạo hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh và là di sản có giá trị vĩnh hằng đối với cách mạng Việt Nam. 3. Đi ra nước ngoài để “xem xét họ làm thế nào” nhằm “trở về giúp đồng bào chúng ta” - với những những hoạt động và kết quả trên đây, có thể nhìn nhận quá trình đó của Nguyễn Tất Thành, trên nền tảng giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, thực chất là quá trình hội nhập quốc tế để nghiên cứu, lựa chọn, tiếp nhận, vận dụng và phát triển các giá trị tinh hoa văn hóa văn minh nhân loại nhằm tìm ra con đường đi lên cho dân tộc, hướng tới mục tiêu vì sự giải phóng con người. Chính từ mục tiêu và bản chất của toàn bộ quá trình tiếp biến các giá trị văn hóa văn minh đó đã mặc định tư tưởng và sự nghiệp cách mạng mà Người lãnh đạo thực hiện ở Việt Nam cũng như những đóng góp của Người với dân tộc và nhân loại thấm đậm giá trị văn hóa văn minh. Giá trị cao cả và đích thực của tư tưởng, sự nghiệp ấy chính là ở chỗ: Người đã lãnh đạo nhân dân đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc, xây dựng xã hội mới vì tự do và hạnh phúc của con người Việt Nam, đồng thời góp phần cùng các dân tộc đấu tranh loại trừ chủ nghĩa thực dân - một trở lực lớn trên con đường tiến tới văn minh của nhân loại, đóng góp to lớn vào cuộc đấu tranh xây dựng một thế giới mới hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử loài người. Những giá trị văn hóa-văn minh đó càng thêm sâu sắc khi Người chủ trương cách mạng bắt đầu bằng sự giác ngộ nhân dân, làm cho nhân dân hiểu rõ các quy luật phát triển của xã hội, nhận rõ mục đích đấu tranh và con đường giải phóng, tin chắc vào sự thắng lợi mà kiên quyết tự đứng lên làm cách mạng và xây dựng xã hội mới xóa bỏ áp bức, bóc lột và tạo ra những điều kiện phát triển toàn diện đối với con người. Người cho rằng: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân giàu nước mạnh, mọi ngời Việt Nam đều phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia xây dựng nước nhà”[4] . Xuất phát từ các giá trị văn hóa - văn minh nhân loại, lấy văn hóa soi đường cho quốc dân đi, đem văn minh chống lại dã man, vì vậy, sự nghiệp giải phóng dân tộc và con người dưới sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự nghiệp văn hóa - văn minh vĩ đại ở Việt Nam, trong đó kết hợp chặt chẽ giữa giải phóng với phát triển và hoàn thiện con người. Giá trị cao cả nhất của văn hóa - văn minh là hướng tới và đưa đến sự giải phóng toàn diện, phát triển và hoàn thiện con người, nhưng sự sâu sắc của giá trị cao cả đó là làm cho con người tự đứng lên giải phóng bằng chính sự phát triển và hoàn thiện của mình.
Xã hội mà Người chủ trương xây dựng là sự kết hợp giữa việc kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa-văn minh dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa-văn minh nhân loại, thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa yêu nước- nhân văn Việt Nam và chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đối với cá nhân, đó là văn hóa-văn minh để làm người, làm việc, để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, phụng sự nhân loại; là xóa bỏ tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ và làm cho mọi người dân Việt Nam, từ già đến trẻ, đàn ông và đàn bà, ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc mà mình được hưởng. Xã hội mà Người chủ trương xây dựng là một xã hội đạo đức có điểm xuất phát từ chính nội dung văn hóa-văn minh của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa để giải phóng con người. Bởi vậy, Người đòi hỏi đội ngũ tiên phong là Đảng Cộng sản phải “là đạo đức, là văn minh” và người làm cách mạng và xây dựng xã hội văn hóa- văn minh phải có văn hóa và đạo đức cách mạng. Người thường nói: “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa”[5] . Đó là đạo đức làm người, hoàn thiện con người, đạo đức vì thắng lợi của sự nghiệp vĩ đại là giải phóng con người và xây dựng xã hội đem lại tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người. Cũng chính vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là gốc, đạo đức cách mạng là đạo đức hành động và Người không chỉ để lại một hệ thống quan điểm về đạo đức để toàn Đảng, toàn dân học tập mà còn là một tấm gương ngời sáng, một kiểu mẫu về đạo đức, về văn hóa-văn minh, về sự nhất quán giữa tư tưởng và hành động, giữa nói và làm. Dẫn dắt cả dân tộc đi vào cuộc cách mạng hướng tới sự giải phóng và hoàn thiện con ngời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của sự toàn mỹ về văn hóa-văn minh, về đạo đức và nhân cách: yêu thương đồng bào và nhân loại; triệt để cách mạng nhưng rất nhân văn; uyên bác mà cực kì khiêm tốn; nguyên tắc chiến lược nhưng rất linh hoạt về sách lược; nhìn xa trông rộng nhưng rất thiết thực cụ thể; vĩ đại mà rất mực bình dị... Đó là chuẩn mực giá trị con người của dân tộc Việt Nam. Suy cho cùng, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm thấy và dẫn dắt dân tộc thực hiện đã đưa tới những thắng lợi vĩ đại đối của dân tộc, đồng thời cũng là những đóng góp vào giải quyết khát vọng lớn lao nhất, mục tiêu văn hóa-văn minh nhất của nhân loại là cải tạo thế giới để giải phóng con người. Sự tôn vinh Người là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất là một vinh danh kép phải được hiểu trên cùng một ý nghĩa: giá trị cao nhất của văn hóa-văn minh, của đạo đức và nhân cách là đưa tới giải phóng, hoàn thiện con người và giải phóng, hoàn thiện con người chính là đỉnh cao của giá trị văn hóa-văn minh, đạo đức và nhân cách. 4. Với những biến cố lịch sử trong một thế kỉ qua, từ sự bế tắc trong đường lối cứu nước hồi đầu thế kỉ XX, với sự hy sinh của biết bao bậc tiên liệt cho nhiệm vụ mở lối, tìm đường cho dân tộc, đến thực tiễn của những thắng lợi đã đạt được trong trong cuộc tranh đấu giành và bảo vệ quyền dân tộc cơ bản cũng như trong xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn, chúng ta càng thấu hiểu thêm ý nghĩa lịch sử và thời đại của sự kiện đi ra thế giới (với phương hướng và pháp mới) để thâu thái những giá trị văn hóa-văn minh nhân loại, mưu tìm con đường cho sinh tồn và phát triển của dân tộc mà Người đã thực hiện. Trên ý nghĩa đó, ngày 5/6/2011, không chỉ là là sự kiện đặc biệt đánh dấu sự khởi đầu của quá trình đi ra thế giới tìm con đường cứu nước cứu, cứu dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà còn là sự kiện mở ra quá trình Việt Nam từng bước hội nhập vào dòng tiến hóa theo xu thế mới của nhân loại dưới sự dân dắt của Người. Trong quá trình đó, trên cơ sở tiếp nhận những giá trị văn hóa-văn minh nhân loại và nắm bắt được xu thế phát triển của loài người trong thời đại mới, thông qua con đường cách mạng mà Người đã lựa chọn, Việt Nam đã kết hợp thành công sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo nên sức mạnh tổng hợp (cả lực, thế, thời) đưa tới những thắng lợi lịch sử cho cách mạng Việt Nam trong một thế kỉ qua. Mặt khác, trong quá trình đó, dân tộc ta đã góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại, làm cho thế kỷ XX trở thành thế kỉ phi thực dân hóa, thúc đẩy lịch sử loài người tiến lên theo hướng tiến bộ. Bởi vậy, kiên trì con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn không chỉ đơn nhất là giữ vững mục tiêu Độc lập - Tự do - Hạnh phúc cho dân tộc và con người Việt Nam mà còn là giữ vững các nhân tố đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng nước ta (thiên thời-địa lợi-nhân hòa) để đất nước (có lực, thế, thời mới) tiếp tục tiến bước mạnh mẽ nhằm hoàn thiện những mục tiêu vì dân tộc, vì con người Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại tiến vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên hành tinh của chúng ta. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với các giá trị trên đây, sự kiện lịch sử Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước càng có ý nghĩa thực tiễn. Với đường lối đổi mới của Đảng, trên thực tế, sự hội nhập quốc tế của Việt Nam cũng là tiếp tục quá trình dân tộc ta đi ra thế giới trong điều kiện lịch sử mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh để thâu nhận các giá trị văn hóa-văn minh nhân loại và nắm bắt xu thế phát triển của loài người nhằm vận dụng và tiến hành thắng lợi sự nghiệp CNH,HĐH đất nước, tạo ra các điều kiện để thực hiện ngày một hoàn chỉnh các nội dung của tiêu chí Độc lập - Tự do - Hạnh phúc cho dân tộc và con người Việt Nam. Bởi vậy, cần phải nắm vững thế giới quan, phương pháp Hồ Chí Minh để không chỉ thâu nhận được các giá trị văn hóa-văn minh, nắm bắt được xu thế phát triển của loài người mà còn vận dụng phù hợp với thực tiễn của đất nước. Chỉ có như vậy mới giải quyết tốt các mối quan hệ dân tộc-giai cấp, quốc gia-quốc tế, dân tộc-thời đại, phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với thời đại, liên tục tạo lập lực-thế-thời mới, đưa đất nước phát triển vững chắc thực hiện các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Một thế kỉ đã trôi qua nhưng sự kiện Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân vẫn còn nguyên ý nghĩa lịch sử và nghĩa thời đại. Ngày nay, trong hành trình hội nhập cùng nhân loại đi đến tương lai, chúng ta càng tin tưởng và kiên trì phấn đấu trên con đường Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã chỉ ra, quyết tâm đưa ngọn cờ của Người đến đích thắng lợi./.
[1] Trước khi thực hiện ý định ra nước ngoài, Nguyễn Tất Thành đã tâm sự với một người bạn: “Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”. Hơn mười năm sau, trả lời một nhà báo về lí do đi ra nước ngoài, Người cho biết: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái... Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”. Một lần khác, Người nói: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”. Thực hiện ý chí của mình, ngày 2-6-1911, Người xin việc làm trên tàu AmiranLatusơ Tơrêvin đang đậu ở bến Nhà Rồng. Ngày 3/6/1911, Ngời bắt đầu làm việc trên tàu này với thẻ làm việc mang tên Văn Ba. Ngày 5/6/1911, tàu Amiran Latutsơ Tơrêvin rời bến Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành bắt đầu cuộc hành trình đi ra thế giới tìm con đường mới để cứu nước cứu dân. [2] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, HN, 2000, tập 9, tr314 [3] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, HN, 2000, tập 12, tr305 [4] Hồ Chí Minh , toàn tập, tập 4, sđd, tr36 [5] Hồ Chí Minh , toàn tập, tập 10, sđd, tr485
|