Nguyễn Huệ đã sử dụng cách đánh gì để đánh tan quân Thanh và bè lũ bản nước Lê Chiêu Thống

Đề bài: Dựa vào đoạn trích hồi thứ 14 của Hoàng Lê nhất thống chí để phân tích hình ảnh bọn giặc cướp nước, bè lũ bán nước, đặc biệt là hình ảnh người anh hùng Nguyễn Huệ.

I. PHÂN TÍCH Đ

1.   Nội dung: Nội dung đề bài có hai ý chính.

a]   Hình ảnh bọn cướp nước, bè lũ bán nước: sự thất bại thảm hại, nhục nhã.

b]  Hình ảnh người anh hùng Nguyễn Huệ – một thiên tài quân sự.

2.   Kiểu bài: Phân tích tác phẩm [một đoạn trích].

3.   Phạm vi kiến thức: đoạn trích trong sách giáo khoa.

IIDÀN Ý

1.   Mở bài:

•     Khái quát về nội dung tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí”.

•     Hồi thứ 14 ca ngợi tài quân sự của Nguyễn Huệ lần thứ 3 tiến quân ra Bắc đánh tan giặc Thanh.

2.   Thân bài:

a]   Hình ảnh bọn giặc cướp nước và bè lũ tay sai bán nước.

– Tôn Sĩ Nghị và quân lính nhà Thanh:

  • Kiêu căng, ngạo mạn khi tiến quân vào Thăng Long.
  • Chủ quan, coi thường đối phương: tướng tá ăn chơi; tiệc tùng, quân lính không có kỉ luật.
  • Bị đánh bất ngờ: Tôn Sĩ Nghị tháo chạy, binh lính đầu hàng.

– Lê Chiêu Thống và bè lũ tay sai:

  • Nhu nhược, đớn hèn dựa vào thế lực quân Thanh
  • Tháo chạy, bám gót bọn xâm lược.

b]  Hình ảnh người anh hùng Nguyễn Huệ:

  • Nhà quân sự tài ba.
  • Người chỉ huy mưu lược thông minh “xuất quỷ nhập thần”.
  • Vị tướng có bản lĩnh, quyết chiến, quyết thắng, thần tốc.
  • Biết động viên khích lệ, làm yên lòng binh sĩ, rộng lượng với những người dưới quyền khi họ phạm lỗi lầm.
  • Nhà chính trị, ngoại giao có tầm nhìn xa trông rộng về hai nước Trung – Việt sau khi đánh bại quân Thanh.

3.   Kết luận:

  • Phản ánh sự thật lịch sử: cuộc xâm lược của quân Thanh và sự thất bại thảm hại của chúng.
  • Các tác giả tỏ thái độ cảm phục, ca ngợi thiên tài Nguvễn Huệ – người anh hùng của dàn tộc.

III. BÀI LÀM:

“Hoàng Lê nhất thống chí” một tác phẩm văn xuôi ghi lại những sự kiện lịch sử cụ thể và sinh động về xã hội Việt Nam thời Lê – Trịnh. Tác phẩm là một bức tranh khái quát rộng lớn về những rối ren lục đục, những thối nát đồi bại trong cung vua, phủ chúa. Hồi thứ 14 của tác phẩm đã kể lại cuộc xâm lược của giặc Thanh, sự thảm hại của chúng cùng bè lũ tay sai bán nước, đồng thời ca ngợi tài quân sự của anh hùng Nguyễn Huệ.

Nước ta, một nước nhỏ bên cạnh một nước lớn, dân tộc liên tục đứng lên chống bọn xâm lược phương Bắc. Lịch sử đã ghi những chiến công oanh liệt: chống Tống, đánh Nguyên, diệt Minh…

Tướng Tôn Sĩ Nghị thống lĩnh 10 vạn quân qua cửa ải, vượt núi băng rừng ngày đi đêm nghỉ thẳng tiến về Thăng Long trong thế thừa thắng dễ dàng, không hề gặp một sự chống cự nào của đối phương. Chính vì thế Tôn Sĩ Nghị và tướng sĩ kiêu căng, chủ quan coi thường người Nam. Tướng tá “ngày ngày chơi bời tiệc tùng, không hề để ý gì đến việc quân”, quân lính không có kỉ luật đi lại lung tung. Chúng còn huênh hoang khoác lác tuyên bố sẽ kéo quân vào tận sào huyệt Tây Sơn bắt sông quân tướng Nguyễn Huệ. Chính người cung nhân cũ của Thái hậu cũng nhận thấy thái độ chủ quan khinh địch của Tôn Sĩ Nghị.

Vì thế khi quân Tây Sơn tiến đánh, quân tướng nhà Thanh không kịp trở tay và thất bại thảm hại. Khi chạm trán với quân Tây Sơn, quân Thanh “trông thấy bóng đã bỏ chạy”, nhưng chúng vẫn bị quân Tây Sơn “bắt sống hết, không tên nào trốn thoát”, ởlàng Hà Hồi, bị bao vây, quân Thanh “ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân Nam lấy hết”. Đồn Ngọc Hồi, trước sức tấn công như vũ bão của quân ta “quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết”. Tên thái thú sầm Nghi Đống đã tự thắt cổ chết. Tôn Sĩ Nghị “sợ mất mặt, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp” nhằm hướng bắc mà chạy. Hàng vạn quân lính bỏ chạy tán loạn, xô đẩy nhau rơi xuống sông chết đến nỗi nước sông Nhị Hà bị tắc nghẽn không chảy được.

Bên cạnh hình ảnh thảm hại của bọn cướp nước là hình ảnh đớn hèn nhục nhã của Lê Chiêu Thống cùng bè lũ bán nước. Chúng rước quân Thanh sang tiêu diệt Tây Sơn, nhưng chúng không ngờ quân Thanh sang xâm lược nước ta, bắt chúng “đương lấy” việc dẹp quân Tây Sơn, còn quân Thanh chỉ “lảng vảng ở bên bờ sông, lấy thanh thếsuông để mà doạ dẫmmà thôi”. Lê Chiêu Thống đã thân hành đến doanh trại để cầu xin Tôn Sĩ Nghị xuất quân. Đến khi quân tướng nhà Thanh tháo chạy, Lê Chiêu Thống cùng bè lũ bán nước cũng chạy lên phía bắc hòng theo gót bọn ngoại bang, cầu xin sự che chở. Cuộc “hội ngộ” của Thông và Nghị ở cửa ải phía Bắc càng thể hiện rõ sự thất bại thảm hại của thầy lẫn tớ. Trong lời từ biệt, chủ tớ cùng nói lời sĩ diện hảo, Thống “xin ở lại đất nước thu nhặt dân binh, để tính việc nổi lên chuyến khác”. Nghị thì hứa: “Nguyễn Quang Trung chưa diệt, việc này còn chưa thôi”.

Đối lập với hình ảnh thảm hại của bọn cướp nước và bè lũ vua quan bán nước là hình ảnh oai hùng hiên ngang của người anh hùng Nguyễn Huệ. Lần thứ ba, Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc đánh tan hơn mười vạn quân xâm lược nhà Thanh. Trước khi cất quân đánh dẹp quân giặc, Nguyễn Huệ đã “tế cáo trời đất cùng các thần sông thần núi” lên ngôi hoàng đế. Nguyễn Huệ tổ chức lại quân đội, sai tướng ở Nghệ An kén lính và chưa mấy lúc đã có hơn một vạn quân tinh nhuệ. Quân đội được tổ chức chặt chẽ chia làm bốn doanh: tiền, hậu, tả, hữu còn lính mới tuyển thì làm trung quân.

Nguyễn Huệ – một vị tướng mưu lược có tài cầm quân, ta hãv nghe lời tâu của người cung nhân cũ, một người xem Nguyễn Huệ ỉà “giặc “Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh.,, ẩn hiện như quỉ thần, không ai có thể lường biết… Thấy hắn trỏ tay đưa mắt ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét”.

Đúng vậy, Nguyễn Huệ – một người chỉ huy có đầy đủ bản lĩnh trong chiến đấu, trước khi xuất quân ông đã quả quyết với tướng lĩnh: “lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh- đã có tính sẵn chẳng qua mươi ngày có thểđuổi được quân Thanh”. Và Nguyền Huệ đã hứa: “hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Các người nhớ lấy, đừng cho là ta nói khoác”. Lời hứa dứt khoát, tự tin và đúng như vậy, cuộc tiến quân thần tốc: tối 30 tháng chạp mở tiệc khao quân lên đường, mồng 5 năm mới đã vào Thăng Long trong tiếng reo hò đại thắng của quân sĩ.

Các tác giả cũng kể lại cách đánh rất thần tình của Nguyễn Huệ như tìm cách phô trương thanh thế lúc ban đầu làm cho giặc khiếp sợ phải xin hang, khi thì dùng nghi binh làm cho chúng hoang mang hoảng loạn. Nguyễn Huệ còn sáng tạo những cách đánh rất tài tình như dùng ván ghép lại, bên ngoài dùng rơm đắp nước phủ kín, các cảm tử quân xông lên giáp lá cà để giết giặc.

Trong trận chiến, người chỉ huy ấy luôn luôn xông pha nơi hiểm yếu, “cỡi voi đi đốc thúc” quân lính. Với quân sĩ, Nguyễn Huệ là người tướng biết khích lệ động viên họ trong chiến đấu. Ông khêu gợi lòng căm thùgiặc, niềm tự hào về ông cha đã bao đời thắng giặc ngoại xâm, kêu gọi binh sĩ đồng tâm hiệp lực để dựng lên công lớn. Đối với tướng dưới quyền như Ngô Văn Sở… đã bỏ Thăng Long rút quân về Tam Điệp, ông không quở phạt. Vì thế tướng sĩ trên dưới một lòng, quân đội kỉ luật nghiêm minh, tuyệt đối tin tưởng ở người cầm quân.

Nguyễn Huệ không những là nhà quân sự thiên tài mà còn là nhà chính trị, nhà ngoại giao có tầm nhìn xa trông rộng. Khi tiến đánh quân Thanh, ông cũng đãnghĩ đến mối quan hệ giữa hai nước Việt – Trung. Ông trù tính trước: bị thua trận chúng “ắt phải làm thẹn mà lo việc báo thù”, lúc ấy Ngô Thì Nhiệm sẽ là người dùng lời lẽ khéo léo ngoại giao để dẹp cảnh binh đao.

Câu chuyện lịch sử được ghi chép lại bằng những chi tiết cụ thể, sinh động và hấp dẫn. Trước những chiến công hiển hách của Nguyễn Huệ, các tác giả đã ca ngợi người anh hùng của dân tộc. Hình ảnh người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ mãi mãi là ngôi sao sáng chói trong lịch sử dân tộc ta.

***

Trên đây là dàn ý và bài văn mẫu Phân tích hình ảnh bọn giặc cướp nước, bè lũ bán nước, đặc biệt là hình ảnh người anh hùng Nguyễn Huệ. Các em tham khảo để làm bài nhé. Chúc các em học tốt !

Tìm bài này trên Google:

  • Phân tích hình ảnh của bè lũ bán nước
  • Ai là bè lũ bán nước
  • hình ảnh bọn cướp nước đc miêu tả̉ qua những chi tiết nào?
  • hinh anh cuop nuoc của nguyên hue
  • hình ảnh bọn cướp nc tôn
  • sơ đồ về chân dung bọn cướp

Đã thành thông lệ, vào ngày mùng 5 Tết Nguyên đán hằng năm, Lễ hội gò Đống Đa, một trong những lễ hội lớn đầu xuân của thủ đô Hà Nội, tưởng niệm hoàng đế Quang Trung và chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa lại được tổ chức.

Hình ảnh tại lễ hội gò Đống Đa năm 2016. Ảnh: Quốc Khánh/TTXVN

Đến với Lễ hội gò Đống Đa không chỉ để tưởng nhớ nghĩa quân Tây Sơn, biểu thị lòng tôn kính những người anh hùng áo vải cờ đào mà còn là dịp để trở về với truyền thống, những giá trị văn hóa dân gian độc đáo.

Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa

Cách đây 228 năm, mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789, nghĩa quân Tây Sơn dũng mãnh, dưới sự chỉ huy của người Anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ đã tiến công thần tốc, mãnh liệt, đánh tan hàng vạn quân Mãn Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy, giải phóng kinh thành Thăng Long, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.

Ngược dòng lịch sử, Triều đình Mãn Thanh từ khi được thiết lập đã rắp tâm xâm lược nước ta, nhưng chưa tìm được cớ gây hấn. Lợi dụng hành động “rước voi về giày mồ” của bè lũ phong kiến phản động Lê Chiêu Thống, quân Thanh đã tràn sang xâm chiếm nước ta với một lực lượng viễn chinh lớn gồm 20 vạn quân.

Trước tình hình thù trong, giặc ngoài, nhận thấy nguy cơ chủ yếu là bọn phong kiến xâm lược phương bắc, Nguyễn Huệ đã làm lễ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung, rồi nhanh chóng tiến công ra bắc. Ngày 15/1/1789, Nguyễn Huệ cùng đại quân [sau khi đã tăng quân số lên đến 10 vạn người] và một đội tượng binh lớn gồm vài trăm voi chiến đã ra đến Tam Điệp, hội quân với Đại tư mã Ngô Văn Sở, chuẩn bị phản công quân Thanh.

Nắm được kế hoạch và cách bố trí lực lượng của địch, Quang Trung đã chia quân Tây Sơn ra làm 5 đạo chính và đêm giao thừa Tết Kỷ Dậu [25/1/1789], đạo quân chủ lực do Quang Trung chỉ huy đã vượt sông Gián Thuỷ, mở màn cuộc đại phá quân Thanh. Các đồn tiền tiêu của địch như Gián Khẩu, Thanh Quyết, Nhật Tảo… lần lượt bị hạ. Không một tên lính nào chạy thoát.

Nửa đêm mùng 3 Tết Kỷ Dậu [ngày 28/1/1789], quân Tây Sơn bí mật bao vây đồn Hạ Hồi [cách Thăng Long khoảng 20 km], uy hiếp địch và bắt sống hàng vạn quân Thanh. Mùng 4 Tết [ngày 29/1/1789], quân Tây Sơn tiếp cận Ngọc Hồi. Lúc này, đạo quân thứ ba do Đại đô đốc Bảo chỉ huy cũng tập kết tại phía Tây Nam Ngọc Hồi, cùng chuẩn bị tiến công.

Sáng mùng 5 Tết Kỷ Dậu [ngày 30/1/1789], quân Tây Sơn bất ngờ tấn công với thế xung trận mạnh như triều dâng, bão cuốn đã phá huỷ các chiến luỹ và toàn bộ trận địa phòng thủ mặt Nam đồn Ngọc Hồi…

Đạo quân thứ hai do Đô đốc Đặng Tiến Đông chỉ huy cũng đồng thời mở cuộc tiến công hết sức bất ngờ vào đồn Đống Đa. Bằng khí thế áp đảo, quân Tây Sơn với đội hình bày sẵn, xông thẳng vào đồn trại địch, đốt phá các doanh trại phía ngoài rồi nhanh chóng đánh thọc sâu vào sở chỉ huy của địch. Chỉ trong chốc lát, số quân Thanh bị chết và bị thương đã lên đến 5.000 người.

Trước thế cùng, lực kiệt, Sầm Nghi Đống đã phải thắt cổ tự tử ngay tại sở chỉ huy. Tiếp tục thế tiến công, đạo quân Tây Sơn đã thừa thắng, tiêu diệt luôn các đồn Yên Quyết, Nam Đồng rồi nhanh chóng thọc sâu vào Thăng Long, đồng thời uy hiếp vào đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị.

Quang Trung đưa đạo quân chủ lực tiếp tục tiến đánh đồn Ngọc Hồi và cho đội voi chiến chia làm 2 cánh tả, hữu, đánh vào 2 bên sườn. Quân Tây Sơn ào ạt tiến lên, bất chấp đại bác, cung tên và hoả mù của giặc và tiêu diệt hoàn toàn đồn Ngọc Hồi. Tàn quân Thanh tháo chạy về phía Đầm Mực nhưng bị đạo quân thứ ba do Đại đô đốc Bảo chỉ huy tiêu diệt hoàn toàn.

Tại đại bản doanh đóng ở cung Tây Long bên bờ sông Nhị, Tôn Sĩ Nghị vội vàng qua cầu phao, nhằm hướng Bắc chạy trốn. Đại Nam chính biên liệt truyện viết “Tôn Sĩ Nghị đóng trên bãi cát, được tin bại trận vội vàng cưỡi ngựa một mình chạy về Bắc. Tướng sĩ thấy vậy tranh nhau qua cầu mà chạy, cầu đứt, lăn ngã cả xuống sông, chết đến vài vạn người, làm cho nước sông không chảy được”.

Trận Ngọc Hồi – Đống Đa đại thắng đã chứng tỏ nghệ thuật quân sự tuyệt vời của quân Tây Sơn. Đó là nghệ thuật chuyển quân thần tốc từ Phú Xuân ra bắc; là nghệ thuật tác chiến chiến lược và trong riêng từng trận đánh – đó là nghệ thuật “chính, kỳ” cổ điển. Bằng thắng lợi vĩ đại này, dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ đã đập tan mộng xâm lược của quân Thanh, giải phóng hoàn toàn kinh thành Thăng Long, giữ vững nền độc lập dân tộc.

Chiến thắng này còn đánh dấu việc nhà Tây Sơn chính thức thay nhà Hậu Lê trong việc cai quản đất Bắc Hà và trong quan hệ với nhà Thanh.

Về lễ hội chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa

Lễ hội kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa được tổ chức hằng năm tại Công viên văn hóa Đống Đa, Hà Nội để tưởng nhớ tới công tích lẫy lừng của vua Quang Trung – người anh hùng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

Ngoài những nét văn hóa khá tương đồng với lễ hội Tây Sơn Thượng đạo [An Khê – Gia Lai], Tây Sơn Hạ đạo [Bình Định], lễ hội gò Đống Đa có những điểm khác biệt rất độc đáo và hấp dẫn.

Lễ hội luôn có những nghi lễ truyền thống đặc biệt, cờ hoa rực rỡ, sắc phục lộng lẫy rợp trời, chiêng trống thôi thúc xung trận, làm sống lại những trang sử vẻ vang của dân tộc, làm náo nhiệt cả thủ đô Hà Nội. Sau phần dâng lễ [thường là cỗ xôi yến tầng, mâm đầu lợn, mâm con gà, trầu rượu, vàng hương…], ngũ bái tam khấu đầu [nghi lễ tế vua], đánh 2 hồi trống chuông xin phép các thần linh, vua chúa, tướng lĩnh là vào phần hội.

Phần hội thường có những nội dung chính như: đánh trống hiệu lệnh của nghĩa quân Tây Sơn, tổ chức rước rồng lửa, đọc diễn văn, đọc những câu nói nổi tiếng của vua Quang Trung như: “…Đánh cho nó chính luân bất phản/Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn/Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”, biểu diễn múa rồng, múa lân, múa võ cổ truyền, múa côn quyền, múa gậy đánh đuổi giặc ngoại xâm.

Sau phần hội, người dân vào chùa Đồng Quang [đối diện gò Đống Đa], chùa Bộc [gần đền thờ vua Quang Trung] phát tâm thiện nguyện, nấu cháo, thắp hương cầu siêu cho các cô hồn.

Hội gò Đống Đa đã có từ rất lâu đời, tuy nhiên đến năm 1962, Nhà nước công nhận gò Đống Đa là Di tích lịch sử-văn hóa cấp quốc gia thì các hoạt động văn hóa có thêm điều kiện phát triển bài bản.

Nhân dịp kỷ niệm 200 năm chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa [1789 – 1989], Đảng và Nhà nước ta đã quyết định thành lập Công viên Văn hóa Đống Đa. Từ đó đến nay, các công trình ở gò Đống Đa lần lượt được trùng tu, tôn tạo, xây dựng kiên cố, khang trang và các hoạt động văn hóa, thể thao, tâm linh phát triển mạnh mẽ hơn…

Kim Chung [TTXVN]

Video liên quan

Chủ Đề