Người bị ung thư có nên uống sâm không
Người bệnh ung thư có nên sử dụng nhân sâm không Show
Từ ngàn xưa, Nhân sâm đã được xem là loại thảo dược đứng đầu trong các loại thảo dược trong danh mục các vị thuốc của Y học Cổ truyền. Nhân Sâm không chỉ có chức năng bồi bổ năng cao sức khỏe, tăng cường sinh lực mà còn hiệu quả với nhiều căn bệnh. Theo quan niệm từ xưa, Nhân Sâm không dùng được cho bệnh ung thư vì Nhân Sâm là chất bổ dưỡng, nếu dùng Nhân Sâm sẽ làm các tế bào ung thư phát triển càng gây nguy hiểm. Quan niệm đó có đúng không? Bệnh ung thư có dùng được Nhân sâm không? Ngày nay, với sự phát triển của khoa học, nhiều công trình nghiên cứu đã xác định từng hoạt chất cụ thể có trong Nhân sâm và những tác dụng dược lý đặc trưng của mỗi hoạt chất. Trong hơn 30 hoạt chất ginsenosides có 2 hoạt chất ginsenoside Rh2, Rg3. Ginsenoside Rh2, Rg3 hiện có trong Hồng Sâm và Sâm núi hoang dã, và chiếm một lượng rất ít (chỉ 0,01 – 0,03%) Những tính năng đặc biệt của các ginsenoside với những hiệu quả kỳ diệu đã thu hút sự chú ý của các nhà khoa học. Thông qua các nghiên cứu của các tổ chức hàng đầu thế giới, đã khám phá ra ginsenoside Rh2, Rg3 có các chức năng cùng một lúc tác động lên người bệnh ung thư. Nói về công dụng chữa bệnh ung thư gan bằng nhân sâm đã được các nhà khoa học chứng minh rằng nhân sâm có tác dụng hiệu quả với bệnh ung thư. Với các hoạt chất của nhân sâm giúp ngăn ngừa sự phát triển các tế bào ung thư. Với tình trạng bệnh của bác mới phát hiện và đang ở giai đoạn đầu nên sử dụng nhân sâm hàng ngày sẽ giúp giảm các tế bào ung thư, đồng thời đánh bật chúng ra khỏi cơ thể. Hơn nữa, bác bị ung thư gan ở giai đoạn đầu nên dễ điều trị hơn, khả năng khỏi bệnh cao hơn. Ngoài ra, nhân sâm còn có tác dụng giải nhiệt, thanh lọc và làm mát gan. Từ đó, hạn chế các bệnh về gan như ung thư gan, xơ gan…Không những thế, nhân sâm Hàn Quốc còn có tác dụng tăng cường sức đề kháng, nhằm ngăn chặn sự xâm nhập các tế bào ung thư hiệu quả. Nếu bác đi điều trị bằng phương pháp hóa xạ trị thì sử dụng nhân sâm sẽ giúp giảm tác dụng phụ và giảm cảm giác đau đớn mà nó gây ra. Giúp bác khỏe mạnh hơn, thoải mái hơn rất nhiều. Mặt khác, khi bị ung thư chúng ta thường mệt mỏi, kém ăn nên thiếu nhiều chất dinh dưỡng. Sử dụng nhân sâm sẽ là cách bổ sung các chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể. Từ đó giúp nâng cao sức khỏe, và bảo vệ cơ thể tốt hơn. Ung thư có đặc điểm: các tế bào tăng trưởng nhanh, xâm lấn và di căn rộng khắp. Người ta đã biết, nhân sâm có tinh chất ginsenosid Rh2 và Rh3 có khả năng ức chế sinh trưởng tế bào ung thư hoặc diệt chúng. Qua nghiên cứu các nhà khoa học thấy rõ, rối loạn hay suy giảm chức năng miễn dịch là một trong những nguyên nhân chính phát sinh bệnh ung thư. Những lưu ý khi sử dụng nhân sâm - Cần hiểu là Nhân Sâm - Hồng Sâm có tác dụng như một thực phẩm chức năng hỗ trợ điều trị ung thư, không phải là thuốc thay thế các phương pháp chữa bệnh. Các thành phần ginsenosides có tác dụng khống chế và ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư. Nếu dùng liều cao, có thể triệt phá các tế bào. Các ginsenosides có chức năng tăng cường khả năng miễn dịch, nâng cao thể trạng người bệnh, giúp người bệnh vượt qua những triệu chứng mệt mỏi cũng như tác dụng phụ của quá trình hóa trị, xạ trị. - Và cần lưu ý rằng, không phải loại Nhân Sâm, Hồng Sâm nào cũng có tác dụng như nhau. Hiệu quả của Nhân Sâm mang lại phụ thuộc vào hàm lượng ginsenosides có trong Hồng Sâm. Có loại gần như có rất ít hoặc không có các hoạt tính ginsenosides Rh2, Rg3, Rg1, Rg2... nên chỉ có tác dụng tăng cường sức khỏe chứ không có hiệu quả với điều trị bệnh. Theo BS Lê Hùng, Viện Y học dân tộc TPHCM, ngay cả người có nghề về dược liệu cũng khó đánh giá chất lượng Nhân Sâm bằng mắt thường. Với Nhân Sâm bày bán trên thị trường, hầu hết đã bị "rút ruột", lấy hết tinh chất dược liệu quý, sau đó trang điểm lại bằng cách mua tinh dầu nhân sâm nhân tạo để đánh lừa. Nhiều loại Hồng Sâm trên thị trường thành phần Sâm chỉ tượng trưng khoảng 2 - 5% nên không hiệu quả. Khi sử dụng loại Hồng Sâm này, chỉ như dùng các loại thức uổng bổ dưỡng tăng cường sức khỏe. Việc đề cao sức miễn dịch để đẩy lùi bệnh tật từ bên ngoài là việc quan trọng nhất. Ngoài ra, khi mắc bệnh ung thư lập tức phải tìm cách thải, cô độc khối u là điều quan trọng. Trong hội nghị thế giới lần thứ 2 về nhân sâm, các viện nghiên cứu ở nhiều quốc gia đều có kết quả giống nhau là nhờ nhân sâm mà các tế bào ung thư trở thành bình thường. Như vậy, các nhà nghiên cứu khẳng định nhân sâm có thành phần tác dụng chữa ung thư. Người ta lấy saponin cho vào một ống nghiệm có chứa tế bào ung thư, còn ống nghiệm khác lấy tế bào ung thư thí nghiệm đối chứng. Để hai ống nghiệm này trong 1 năm, nhưng mới nửa năm người ta đã phát hiện ống nghiệm không có saponin, tế bào ung thư phát triển rất nhanh. Còn ở ống nghiệm có saponin, tế bào có phát triển, nhưng là những tế bào bình thường cường hóa làm các tế bào trong ống nghiệm lên men chuyển hóa thành tế bào bình thường. Gần 50 năm trước, GS. Bộ Biên Bố Nhị Mẫn đã nhận thấy: tế bào ung thư không lập tức trở thành ung thư mà chuyển hóa từ từ, có thể chuyển đổi tế bào ung thư thành tế bào phát triển bình thường. Giả sử, lập luận của GS. Nhị Mẫn là đúng, thì tế bào ung thư có hy vọng trở thành tế bào không có độc do tiến hành tác dụng đảo ngược. Có thể làm tế bào đang “nghỉ ngơi” trở thành bình thường hóa. Lấy tế bào của động vật, chiết xuất chất ung thư làm các tế bào chết đi, các nhà khoa học Hàn Quốc đã thử nghiệm và báo cáo ở hội nghị này. Saponin có thể phá hoại tế bào ung thư, nhưng tế bào bình thường không bị tác hại, tinh chất nhân sâm làm bình thường các gen lạ của tế bào ung thư, để tế bào ung thư khôi phục trạng thái vốn có trở nên bình thường. Hiện nay ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc đang có những cố gắng nghiên cứu nâng cao sức đề kháng của người bị bệnh ung thư. Tế bào ung thư lấy hết dinh dưỡng của các tế bào khác, điều đó làm cho người bệnh bị suy dinh dưỡng, bị thiếu máu làm cho sức đề kháng yếu. Liệu pháp xạ trị tiêu diệt tế bào ung thư cũng tiêu diệt nhiều bạch cầu. Một số người giảm bạch cầu xuống dưới 2 triệu làm cho sức đề kháng giảm yếu không tạo ra được khả năng miễn dịch. Điều này làm cho tế bào ung thư càng tự do phát triển hơn, vì vậy phải gia tăng bạch cầu cho người bệnh. Nhân sâm có khả năng tăng bạch cầu rất hiệu quả. Nhân sâm không chỉ tăng bạch cầu mà còn tăng nhiều hồng cầu. Người bệnh được tăng bạch cầu, tăng sức đề kháng và mau khỏe mạnh. Thí nghiệm lâm sàng cho thấy, để chống tái phát, người bệnh nên dùng 10 - 30 g nhân sâm/ngày sẽ có hiệu quả cao. Ung thư bao tử hay loét bao tử dùng nhân sâm đều chữa khỏi 100%. Không may do ung thư mà bao tử bị bệnh trầm trọng thì rất đau và khó chịu đựng được. Lúc này, người bệnh uống nhân sâm sẽ giảm đau rất tốt và có thêm sinh khí kéo dài tuổi thọ.
Nhân sâm được biết đến từ “Thần nông bản thảo”, tài liệu có ghi chép: Vị hơi ngọt, tính hơi lạnh, tác dụng cải tiến chức năng lục phủ ngũ tạng, loại bỏ những điều không tốt, sáng mắt, bổ trí não, tăng thông minh, giúp cơ thể nhẹ nhõm. Nhân sâm được sử dụng cho mục đích tăng cường sức khỏe, được xếp vào một trong bốn loại thuốc quý (Sâm – Nhung – Quế – Phụ) từ lịch sử hơn 2000 năm trước. Đối với bệnh ung thư, vai trò hỗ trợ điều trị của Nhân sâm vẫn còn nhiều tranh cãi và chưa sáng tỏ. Bài viết sau đây hy vọng sẽ phần nào giúp bạn đọc hiểu thêm vai trò của Nhân sâm đối với sức khỏe bệnh nhân ung thư, cũng như những nguy cơ gặp phải trong quá trình sử dụng Nhân sâm. 1. Một số đặc điểm của Nhân sâmHiện nay trên thế giới đã có 11 loài Nhân sâm thuộc chi Panax đã được nhận dạng, Nhân sâm châu Á gồm có Panax notoginseng, Panax japonica và Panax ginseng; Nhân sâm ở châu Mỹ như Panax quinquefolius [18]. Nhân sâm có thành phần hóa học đa dạng. Ngoài các protein và carbohydrate, Nhân sâm còn chứa tinh dầu dễ bay hơi, các ginsenoside (ginseng saponins), các amino acid, vitamin và acid béo. Ginsenoside là thành phần hóa học chủ yếu tồn tại trong rễ, có hoạt tính sinh học cao, đã có hơn 100 loại ginsenoside được phân lập từ các loại Nhân sâm khác nhau [2]. Nhân sâm châu Á Panax ginseng chứa 38 loại ginsenoside khác nhau, trong khi Nhân sâm Mỹ Panax quinquefolius chỉ có 19 loại ginsenoside [9]. Hơn nữa, Panax ginseng cũng chứa nhiều hoạt chất không là saponin hơn bao gồm hợp chất K, acid polysaccharide và hợp chất polyethylene, được cho rằng có lợi với sức khỏe hơn so với Panax quinquefolius [2]. Cho tới thời điểm hiện tại, Panax ginseng được tiến hành nghiên cứu nhiều và sử dụng phổ biến nhất trong tất cả các loại Nhân sâm. Các yếu tố được chứng minh có thể ảnh hưởng tới hàm lượng ginsenoside trong Nhân sâm bao gồm độ tuổi của Nhân sâm, loại Nhân sâm, đất trồng, ánh sáng và cách chế biến. Nhân sâm tươi, thu hoạch dưới 4 năm có tác dụng dược lý thấp nhất, thường được sử dụng làm nguyên liệu nấu ăn. Rễ của Panax ginseng được thu hoạch sau 5 năm hoặc hơn chứa khoảng 1-2% ginsenoside [18]. Phân loại Nhân sâm theo cách chế biến bao gồm: bạch sâm, hồng sâm, hắc sâm và sâm tươi. Hồng sâm có màu nâu đậm được chế biến bằng cách chọn những củ sâm to, trên 6 năm tuổi, được rửa sạch và hấp ở nhiệt độ 98 -100 độ C, sau đó sấy khô đến khi độ ẩm dưới 15%. Những củ sâm không đủ tiêu chuẩn làm Hồng sâm thì chế biến thành Bạch sâm, được phơi dưới nắng 7-15 ngày, có màu trắng, độ ẩm dưới 15%. Trong khi Hồng sâm chưng cất và sấy khô một lần, Hắc sâm cần phải được chưng cất và sấy khô 9 lần. Còn Sâm tươi là sâm được thu hoạch sau 4-6 năm, chưa được sơ chế, có độ ẩm 75% [1]. 2. Nghiên cứu tác dụng của Nhân sâm trên ung thưTiềm năng kháng tế bào ung thư của các ginsenoside trong Nhân sâm phụ thuộc vào công thức hóa học, cấu trúc không gian, số phân tử đường gắn vào các vị trí trên khung saponin [17], [9]. Hai phần aglycon chính của saponin trong cấu trúc của Nhân sâm là protopanaxadiol và protopanaxatriol. Phần R1, R2 có thể được gắn với các loại đường khác nhau. Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu đánh giá khả năng kháng tế bào ung thư của ginsenoside hay chiết xuất của Nhân sâm trên các dòng tế bào nuôi cấy trong phòng thí nghiệm [17], song vẫn chưa có thử nghiệm lâm sàng nào cho thấy hiệu quả điều trị bệnh ung thư của Nhân sâm trên lâm sàng [25]. Tuy vậy, đã có một số nghiên cứu lâm sàng cho thấy Nhân sâm được xem như một yếu tố hỗ trợ điều trị và cải thiện chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư (Xem phần 2.2 và 2.3). 2.1. Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của Nhân sâm đến nguy cơ mắc ung thưNghiên cứu bệnh – chứng trên 1987 bệnh nhân Hàn Quốc cho thấy sử dụng Hồng sâm giúp giảm nguy cơ mắc phải ung thư ác tính bao gồm: ung thư phổi, đại trực tràng. Tuy nhiên, kết quả phân tích không cho thấy sử dụng Hồng sâm có khả năng làm giảm nguy cơ mắc các loại ung thư như ung thư vú, tử cung, tuyến giáp hay bàng quang trên phụ nữ [30]. Kết quả từ một nghiên cứu khác trên 4634 người Hàn Quốc 40 tuổi trở lên cho thấy những người sử dụng Nhân sâm có tỷ lệ mắc ung thư giảm so với những người không sử dụng [29]. Ngoài ra, sử dụng Hồng sâm 1g mỗi tuần trong vòng 3 năm liên tiếp đối với bệnh nhân bị viêm dạ dày mãn tính được chứng minh có khả năng làm giảm nguy cơ mắc ung thư đường tiêu hóa trong vòng 8 năm theo dõi sau đó. Bên cạnh những nghiên cứu cho thấy sử dụng Nhân sâm có khả năng làm giảm nguy cơ mắc ung thư, có một số nghiên cứu không cho thấy mối liên kết này tồn tại. Phân tích gần 75000 phụ nữ độ tuổi từ 40 đến 70 trong một nghiên cứu về sức khỏe phụ nữ Thượng Hải, Trung Quốc cho thấy không có mối liên kết giữa giảm hay tăng nguy cơ mắc ung thư tiêu hóa và sử dụng các loại Nhân sâm khác nhau [13]. Trong một phân tích khác trên hơn 35000 nam giới độ tuổi từ 50 đến 76 của nghiên cứu VITAL, kết quả cho thấy, sử dụng Nhân sâm không ảnh hưởng tới việc tăng hay giảm nguy cơ mắc ung thư tiền liệt tuyến [6]. 2.2. Nghiên cứu đánh giả ảnh hưởng của Nhân sâm đến tỷ lệ tử vong của bệnh nhân ung thưMột nghiên cứu của nhóm tác giả Cui Y. và cộng sự đã đánh giá ảnh hưởng của Nhân sâm trên 1455 bệnh nhân ung thư vú được tuyển chọn từ trung tâm Ung thư vú ở Thượng Hải, Trung Quốc từ 08/1996 đến tháng 03/1998 thông qua bộ câu hỏi khảo sát để xác định các đầu ra liên quan đến ung thư vú. Kết quả cho thấy những phụ nữ ung thư vú sử dụng Nhân sâm bên cạnh phẫu thuật/xạ trị/hóa trị có nguy cơ tái phát khối u và nguy cơ tử vong thấp hơn so với những người chưa từng sử dụng Nhân sâm [10]. Sử dụng Hồng sâm với mức liều 4,5g mỗi ngày trong vòng 6 tháng sau khi phẫu thuật và hóa trị trên 42 bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn III cũng được chứng minh làm giảm đáng kể tái phát khối u trong 4,5 năm theo dõi sau đó [24]. Kết quả từ một nghiên cứu tiến cứu trên hơn 6000 bệnh nhân ung thư trên 55 tuổi có sử dụng Nhân sâm trong quá trình điều trị ung thư của nhóm tác giả Sang-Wook Yi và cộng sự cho thấy sử dụng Nhân sâm làm chỉ làm giảm tỷ lệ tử vong trên nam giới mà không giảm trên nữ giới [28]. 2.3. Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của Nhân sâm đến chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thưĐã có một số nghiên cứu đánh giá vai trò của việc sử dụng Nhân sâm trong cải thiện chất lượng cuộc sống trên bệnh nhân ung thư thông qua bộ câu hỏi khảo sát chất lượng cuộc sống bệnh nhân trên các tiêu chí về sức khỏe tinh thần, thể lực, thích nghi xã hội. Tuy nhiên, kết quả của các nghiên cứu vẫn còn nhiều mâu thuẫn, chưa thể đi đến thống nhất. Nghiên cứu trên 1455 bệnh nhân ung thư vú được tuyển chọn từ trung tâm ung thư tại Thượng Hải, Trung Quốc cho thấy nhóm bệnh nhân sử dụng Nhân sâm có điểm chất lượng cuộc sống được cải thiện hơn so với nhóm bệnh nhân không sử dụng [10]. Chất lượng cuộc sống được đánh giá thông qua bộ câu hỏi chất lượng chung gồm 74 tiêu chí (General Quality of Life Inventory – 74) được chia thành 4 nhóm: sức khỏe tinh thần, thể chất, khả năng hòa nhập xã hội và tình trạng kinh tế. Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, đối chứng, mù đôi trên 53 bệnh nhân ung thư chia làm hai nhánh, một nhánh sử dụng Nhân sâm mức liều 3g mỗi ngày liên tiếp trong 12 tuần, một nhánh sử dụng giả dược thay thế. Kết quả cho thấy nhóm bệnh nhân được sử dụng Nhân sâm có điểm chất lượng cuộc sống cao hơn so với nhóm sử dụng giả dược [14]. Sử dụng Nhân sâm mức liều 2g mỗi ngày trong vòng 16 tuần cũng được chứng minh cải thiện tình trạng ốm yếu, khả năng vận động và chất lượng cuộc sống trên bệnh nhân ung thư đại trực tràng được hóa trị với oxaliplatin [27]. Năm 2012, nhóm tác giả Bao PP và cộng sự đã tiến hành đánh giá ảnh hưởng của Nhân sâm trên hơn 4000 phụ nữ từ trung tâm Ung thư vú tại Thượng Hải. Kết quả nghiên cứu cho thấy sử dụng Nhân sâm với thời gian từ 6 tháng, 18 tháng hay 36 tháng liên tục sau khi bị chẩn đoán ung thư vú không giúp cải thiện sức khỏe và chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân [4]. Như vậy, cho đến hiện tại vẫn chưa có đủ bằng chứng lâm sàng để khẳng định tác dụng điều trị ung thư của Nhân sâm. Đồng thời, các bằng chứng lâm sàng chứng minh khả năng hỗ trợ điều trị, giảm nguy cơ mắc bệnh cũng như cải thiện chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư còn nhiều điểm bất đồng và chưa sáng tỏ. Tuy nhiên, không thể phủ nhận hoàn toàn tiềm năng hỗ trợ điều trị ung thư của Nhân sâm – một dược liệu có tính an toàn cao khi sử dụng ở mức liều hợp lý. Vậy có nên sử dụng Nhân sâm bên cạnh các liệu pháp điều trị chính thống khác trên bệnh nhân ung thư, và những nguy cơ bệnh nhân có thể gặp phải là gì? 3. Tác dụng phụ khi sử dụng Nhân sâmNhân sâm là một loại dược liệu khá an toàn khi sử dụng ở mức liều 3g đến 9g dạng bột rễ Nhân sâm mỗi ngày [7]. Tuy nhiên, người sử dụng có thể gặp một số tác dụng không mong muốn nếu tăng mức liều này lên hay sử dụng thời gian dài trên 6 tháng. Năm 1979, Siegel và cộng sự đã lần đầu tiên nhắc đến hội chứng “lạm dụng Nhân sâm” với các biểu hiện kích thích thần kinh, rối loạn tâm thần, thay đổi hành vi, nổi ban đỏ ở da, tiêu chảy trên những người sử dụng Nhân sâm ở mức liều 15g mỗi ngày [23]. Nôn và buồn nôn được ghi nhận trên những người khỏe mạnh sử dụng mức liều 200mg dịch chiết Nhân sâm mỗi ngày trong 3 tuần liên tiếp dùng Nhân sâm để hỗ trợ chức năng tim mạch [8]. Những triệu chứng khó chịu đường tiêu hóa như táo bón hay tiêu chảy cũng xuất hiện trong các thử nghiệm lâm sàng được Lee NH và cộng sự phân tích tổng quan [16]. Độc tính gan nặng được báo cáo khi sử dụng Nhân sâm trong quá trình bệnh nhân bị bệnh bạch cầu cấp được điều trị với imatinib, vì vậy bệnh nhân cần tránh sử dụng đồng thời imatinib và Nhân sâm [5]. Hạ đường huyết, đau đầu, nhìn mờ, thiếu máu và kích động được ghi nhận trên bệnh nhân đái tháo đường týp 2 sử dụng Nhân sâm [15]. 4. Tương tác thuốc khi sử dụng cùng với Nhân sâmTương tác thuốc sử dụng cùng Nhân sâm hiếm khi xảy ra, tuy nhiên một số nghiên cứu về dược lý cho rằng cần phải giám sát việc sử dụng đồng thời Nhân sâm cùng với warfarin hay một số thuốc chuyển hóa qua CYP3A hay các thuốc là cơ chất của P-glycoprotein (P-gp), một loại bơm tống thuốc từ tế bào trở lại lòng ruột [21]. Cơ chất của P-gp bao gồm rất nhiều thuốc có khoảng điều trị hẹp như digoxin, các thuốc ức chế miễn dịch cyclosporin, tacrolimus, các thuốc điều trị ung thư như vincristin, paclitaxel, các thuốc kháng retrovirus như ritonavir, saquinavir…[22]. Ngoài ra, Nhân sâm có khả năng ảnh hưởng tới tác dụng của một số loại thuốc điều trị trầm cảm, thuốc hạ đường huyết, thuốc hạ lipid máu hay liệu pháp hormon. Bên cạnh đó, những bệnh nhân đang được điều trị với thuốc chống kết tập tiểu cầu, thuốc chống đông máu hay warfarin không nên sử dụng Nhân sâm để tránh nguy cơ xuất huyết [20]. Tuy vậy, một số ginsenoside trong nhân sâm lại có tác dụng ức chế sự kháng thuốc của tế bào ung thư trong các phác đồ hóa trị liệu. Ginsenoside Rh2 được chứng minh có khả năng làm tăng hiệu quả hóa trị liệu trên bệnh nhân ung thư [12]. Tuy nhiên, ginsenoside Rh2 được hấp thu qua đường tiêu hóa rất kém (dưới 5%), điều này làm hạn chế hiệu quả sử dụng của nó [26]. 5. Kiểm soát chất lượng Nhân sâmThuốc bảo vệ thực vật Do nhu cầu sử dụng ngày càng tăng, nguồn nhân sâm trở nên khan hiếm hơn. Hiện tại, Nhân sâm được trồng chính ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và một số nước khác. Tuy nhiên, để đảm bảo cung ứng đủ số lượng Nhân sâm cho nhu cầu sử dụng hiện nay, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, chất hóa học kích thích dần trở nên phổ biến. Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật đã được phát hiện trong một số sản phẩm nội địa Hàn Quốc có nguồn gốc sản xuất từ Nhân sâm 4 – 6 tuổi trồng ở bốn vùng nông nghiệp khác nhau của tỉnh Jeonnam của Hàn Quốc [19]. Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) cũng phát hiện ra 22 trong số 31 loại sâm nhập khẩu có nguồn gốc từ Canada, Hồng Kông, Trung Quốc, và Hàn Quốc dưới dạng rễ khô, dạng bột, dịch chiết xuất lỏng hay cô đặc được đóng gói ở Hoa Kỳ chứa dư lượng thuốc bảo vệ thực vật dễ bay hơi [11]. Chất pha trộn trái phép không được khai báo Chất pha trộn vào các thực phẩm chức năng có nguồn gốc từ Nhân sâm cũng là một vấn đề cần được quản lý chặt chẽ hiện nay. Tháng 08/2014, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã cảnh cáo đối với một sản phẩm được làm từ Nhân sâm có tên gọi là “Sâm Kianpi Pil” – sản phẩm này được quảng cáo có khả năng làm giảm bớt mệt mỏi, giúp thèm ăn, tăng cân, tăng sức đề kháng cho cơ thể, tăng cường miễn dịch, bổ trí não (https://www.drugs.com/fda-alerts/2370-0.html). Tuy nhiên, phòng nghiên cứu của FDA đã phát hiện trong sản phẩm này có chứa dexamethasone (thuốc chống viêm corticoid tổng hợp) và cyproheptadine (thuốc kháng histamin chống dị ứng), trong khi những thành phần này không được khai báo trên thành phần đăng ký nhãn sản phẩm. Việc trộn Tân dược vào các sản phẩm Nhân sâm nhằm mục đích để người bệnh thấy được tác dụng nhanh chóng là một vấn đề hết sức nguy hiểm đến tính mạng của người bệnh, cần được cơ quan quản lý giám sát chặt chẽ. Kết luậnKết quả một số thử nghiệm lâm sàng gần đây đã cho thấy Nhân sâm có tiềm năng hỗ trợ điều trị cũng như nâng cao sức khỏe cho bệnh nhân ung thư. Tuy nhiên, các nghiên cứu còn có quy mô nhỏ, chủ yếu thiết kế nghiên cứu bệnh – chứng và kết quả chưa hoàn toàn sáng tỏ, còn nhiều điểm bất đồng giữa các nghiên cứu. Vì vậy, trong tương lai cần có những nghiên cứu sâu hơn để đánh giá vai trò của Nhân sâm đối với sức khỏe của bệnh nhân ung thư. Đồng thời, hiện nay đã có rất nhiều sản phẩm làm từ Nhân sâm được sử dụng rộng rãi trên thị trường. Thống kê trong năm 2009 cho thấy thế giới sử dụng 1,3 tỷ USD cho các sản phẩm từ Nhân sâm, với nguồn cung cấp lớn nhất từ Hàn Quốc, sau đó là Trung Quốc, Canada, Hoa Kỳ [3]. Do vậy, việc nghiên cứu phát triển, đảm bảo chất lượng từ khâu gieo trồng đến khâu thu hoạch, chế biến, đóng gói và bảo quản Nhân sâm trong tương lai cần được quan tâm, giám sát chặt chẽ hơn. Bên cạnh đó, sử dụng Nhân sâm có thể gây ra tác dụng phụ và tương tác với một số thuốc nếu sử dụng quá liều hay trong một thời gian dài, vì vậy việc theo dõi và cân nhắc nguy cơ – lợi ích khi sử dụng Nhân sâm bởi những người có chuyên môn y tế là rất cần thiết. Xin bạn đọc lưu ý, bài viết này chỉ được xem như một tài liệu tham khảo, cách tiếp cận và lý giải vấn đề trong bài viết không nhằm mục đích tuyên truyền chữa trị bất cứ bệnh nào. Trong mọi trường hợp điều trị bệnh, hãy tham vấn ý kiến chuyên môn y tế để hiểu rõ về bệnh tình của bạn. Chịu trách nhiệm nội dung: Nguyễn Thị Uyên, Th.S. Dược học, CTV Ban Khoa Học Cố vấn khoa học: Nguyễn Hồng Vũ, TS (Viện nghiên cứu City of Hope, California, Hoa Kỳ) Lê Anh Phương, TS (ĐH Quốc gia Singapore, Singapore) Nguyễn Trương Đức Hoàng, ThS.BS (Đại học Hiroshima, Nhật Bản) Tài liệu tham khảo
|