Ngắn hạn và dài hạn trong kinh tế học có nghĩa là

Ngắn hạn là khoảng thời gian trừu tượng trong lý thuyết về cung. Nó là khoảng thời gian trong đó một số đầu vào nhân tố không thay đổi [đầu vào nhân tố cố định, chẳng hạn quy mô nhà máy] và doanh nghiệp chỉ có thể thay đổi sản lượng bằng cách điều chỉnh lượng đầu vào của các nhân tố biến đổi, chẳng hạn lao động, nguyên liệu.

Trong thực tế, khoảng thời gian được COI là ngắn hạn trong các ngành không giống nhau. Chẳng hạn trong ngành hoá dầu, người ta cần tới 5 năm hoặc dài hơn để chuẩn bị, thi công và vận hành thử nhà máy mới. Vì vậy, trong ngành này kỳ hạn ngắn có thể dài tới 5 năm, vì trong khoảng thời gian này ngành hoá dầu chỉ có thể tăng sản lượng bằng cách tăng cường độ sử dụng trang thiết bị hiện có. Ngược lại, trong ngành may mặc, người ta có thể mua và lấp đặt máy may mới trong vài tuần. Cho nên trong ngành này, ngắn hạn có thể chỉ là một tháng hoặc ngắn hơn..

Trong kinh tế học, dài hạn là một khái niệm lý thuyết trong đó tất cả các thị trường đều ở trạng thái cân bằng , và tất cả giá cả và số lượng đã hoàn toàn điều chỉnh và ở trạng thái cân bằng. Trong dài hạn trái ngược với ngắn hạn , trong đó có một số hạn chế và thị trường không hoàn toàn ở trạng thái cân bằng.

Cụ thể hơn, trong kinh tế vi mô không có các yếu tố sản xuất cố định trong dài hạn và có đủ thời gian để điều chỉnh để không có những ràng buộc ngăn cản việc thay đổi mức sản lượng bằng cách thay đổi lượng vốn dự trữ hoặc bằng cách gia nhập hoặc rời khỏi một ngành. Điều này trái ngược với ngắn hạn, trong đó một số yếu tố có thể thay đổi [phụ thuộc vào số lượng sản xuất] và một số yếu tố khác là cố định [thanh toán một lần], hạn chế việc gia nhập hoặc rút lui khỏi một ngành. Trong kinh tế vĩ mô , dài hạn là thời kỳ mặt bằng giá chung , tiền lương theo hợp đồng và kỳ vọng điều chỉnh hoàn toàn theo tình trạng của nền kinh tế, ngược lại trong ngắn hạn khi các biến số này có thể không điều chỉnh hoàn toàn. [1][2]

Sự khác biệt giữa các mô hình kinh tế dài hạn và ngắn hạn đã không xuất hiện trong thực tế cho đến năm 1890, khi Alfred Marshall xuất bản công trình Nguyên tắc kinh tế của ông . Tuy nhiên, không có định nghĩa nhanh và cứng nào được phân loại là "dài" hay "ngắn" và chủ yếu dựa vào quan điểm kinh tế đang được thực hiện. Sự ra đời ban đầu của Marshall về kinh tế học dài hạn và ngắn hạn phản ánh 'phương pháp dài hạn' vốn là một phân tích phổ biến được các nhà kinh tế chính trị cổ điển sử dụng. Tuy nhiên, vào đầu những năm 1930, sự không hài lòng với một loạt các kết luận của lý thuyết ban đầu của Marshall đã dẫn đến các phương pháp phân tích và giới thiệu các khái niệm cân bằng. Các nhà kinh tế chính trị cổ điển , tân cổ điển chuyên gia kinh tế,Các nhà kinh tế học theo trường phái Keynes đều có những cách hiểu và giải thích hơi khác nhau về cách xác định, đạt tới các điểm cân bằng trong ngắn hạn và dài hạn và những yếu tố nào ảnh hưởng đến chúng. [3]

Từ nguồn gốc của nó, "phương pháp thời kỳ dài" đã được sử dụng để xác định cách thức sản xuất, phân phối và tích lũy diễn ra trong nền kinh tế. Về lâu dài, các doanh nghiệp thay đổi mức sản xuất để đáp ứng với lãi hoặc lỗ kinh tế [dự kiến] , và đất đai , lao động , tư liệu sản xuất và tinh thần kinh doanh thay đổi để đạt đến mức chi phí trung bình dài hạn tối thiểu . Một công ty nói chung có thể thực hiện những thay đổi sau đây trong dài hạn:

Trong dài hạn gắn liền với đường cong chi phí trung bình dài hạn [LRAC] trong các mô hình kinh tế vi mô mà theo đó, một công ty sẽ giảm thiểu chi phí trung bình [giá mỗi đơn vị] cho mỗi lượng sản lượng dài hạn tương ứng. Chi phí cận biên dài hạn [ LRMC ] là chi phí tăng thêm của việc cung cấp thêm một đơn vị dịch vụ hoặc sản phẩm từ việc thay đổi mức công suất để đạt được mức chi phí thấp nhất liên quan đến sản lượng tăng thêm đó. Giá bằng LRMC có hiệu quả trong việc phân bổ nguồn lực trong dài hạn. Khái niệm về chi phí dài hạncũng được sử dụng để xác định liệu công ty sẽ tiếp tục hoạt động trong ngành hay ngừng sản xuất tại đó. Trong trạng thái cân bằng dài hạn của một ngành trong đó cạnh tranh hoàn hảo chiếm ưu thế, LRMC = LRAC tại LRAC tối thiểu và sản lượng liên quan. Hình dạng của đường chi phí biên và chi phí trung bình dài hạn chịu ảnh hưởng của loại lợi nhuận theo quy mô .

Hiện nay việc đầu tư chứng khoán dài hạn đang nhận được rất nhiều sự quan tâm cụ thể thì đây là chiến lược đầu tư chứng khoán kéo dài với thời gian trên 1 năm,cổ phiếu dài hạn thì thường tập trung vào mua cổ phiếu của các công ty có tiềm năng phát triển từ lúc giá còn thấp để bán ra với giá cao hơn khi công ty tăng trưởng trong tương lai. Vậy để hiểu chi tiết hơn về Dài hạn là gì? Đặc điểm, xu hướng dài hạn và cổ phiếu dài hạn. Bài viết dưới đây chúng tôi xin cung cấp thông tin chi tiết về nội dung này.

Luật sư tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568

1. Dài hạn là gì?

Trong lý thuyết về cung, thời kỳ dài hạn long term/ long run

Đây được hiểu là thời kỳ đủ dài để tất cả các đầu vào nhân tố đều có thể thay đổi, nhưng công nghệ nhìn chung không thay đổi. Theo quy ước này, quy mô nhà máy của một doanh nghiệp bị cố định trong ngắn hạn, nhưng có thể thay đổi để đem lại quy mô hoạt động lớn hơn trong dài hạn. Trong thời hạn rất dài, công nghệ cũng thay đổi do sự xuất hiện của các quy trình sản xuất mới.

Dài hạn là một khoảng thời gian trong đó tất cả các yếu tố sản xuất và chi phí đều có thể thay đổi. Trong dài hạn, các công ty có thể điều chỉnh tất cả các chi phí, trong khi đó, trong ngắn hạn, các công ty chỉ có thể tác động đến giá cả thông qua các điều chỉnh đối với mức sản xuất. Ngoài ra, trong khi một công ty có thể là độc quyền trong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn, họ có thể bị cạnh tranh. Trong kinh tế học, các mô hình dài hạn có thể thoát khỏi trạng thái cân bằng ngắn hạn, trong đó cung và cầu phản ứng với mức giá một sự linh hoạt hơn.

2. Đặc điểm của xu hướng dài hạn

Dài hạn là khoảng thời gian mà nhà sản xuất có thể linh hoạt trong các quyết định sản xuất của mình. Các doanh nghiệp có thể mở rộng hoặc giảm bớt năng lực sản xuất, gia nhập hoặc rời khỏi một ngành dựa trên lợi nhuận dự kiến. Các công ty hiểu rằng họ không thể thay đổi mức độ sản xuất trong dài hạn để đạt đến trạng thái cân bằng giữa cung và cầu. Trong kinh tế vĩ mô, dài hạn là giai đoạn khi có mức giá chung, mức lương theo hợp đồng và những dự tính sẽ được điều chỉnh hoàn toàn theo trạng thái của nền kinh tế, ngược lại với ngắn hạn, là khi các biến này có thể không điều chỉnh hoàn toàn. Để đạt được lợi nhuận kinh tế dự kiến, các công ty có thể thay đổi qui mo sản xuất.

Ví dụ, một công ty có thể thực hiện thay đổi bằng cách tăng [hoặc giảm] qui mô sản xuất để đáp ứng với lợi nhuận [hoặc thua lỗ], chẳng hạn như phải xây dựng một nhà máy mới hoặc lắp đặt thêm một dây chuyền sản xuất .Mặt khác, ngắn hạn là khoảng thời gian mà các yếu tố sản xuất phải cố định, ngoại trừ lao động có thể thay đổi.

Ví dụ về Dài hạn

Một doanh nghiệp có hợp đồng thuê 01 năm sẽ được xác định là dài hạn là nếu thời gian thuê dài hơn 01 năm và không bị ràng buộc bởi hợp đồng cho thuê sau năm đó. Trong dài hạn, số lượng lao động, qui mô của nhà máy và qui trình sản xuất có thể được thay đổi nếu cần để phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp hoặc tổ chức cho thuê.

Xem thêm: Nợ dài hạn là gì? Các khoản nợ dài hạn bao gồm các khoản nào?

Một số lưu ý về Dài hạn

Trong dài hạn, một công ty sẽ tìm kiếm công nghệ sản xuất cho phép nó tạo ra mức sản lượng mong muốn với chi phí thấp nhất.Nếu một công ty không sản xuất với chi phí thấp nhất có thể, nó có thể để mất thị phần về tay các đối thủ cạnh tranh có khả năng sản xuất và bán sản phẩm tại mức chi phí tối thiểu. Tính kinh tế nhờ qui mô đề cập đến tình huống, khi số lượng đầu ra tăng lên, chi phí cho mỗi đơn vị giảm xuống. Trong thực tế, tính kinh tế nhờ qui mô là lợi thế về chi phí đạt được khi có sự mở rộng qui mô sản xuất.

Lợi thế về chi phí chuyển thành hiệu quả cải thiện trong sản xuất, có thể mang lại cho doanh nghiệp lợi thế cạnh tranh trong ngành đang hoạt động. Do đó, tính kinh tế nhờ qui mô có thể dẫn đến chi phí thấp hơn và lợi nhuận cao hơn cho doanh nghiệp. Khái niệm dài hạn thường đi chung với khái niệm chi phí trung bình dài hạn [long-run average cost – LRAC], chi phí trung bình khả thi khi tất cả các yếu tố sản xuất đều thay đổi. Đường LRAC là đường mà theo đó một công ty sẽ giảm thiểu một đơn vị chi phí cho mỗi sản lượng dài hạn tương ứng. Nếu LRAC giảm khi sản lượng tăng, thì công ty đang áp dụng tính kinh tế nhờ qui mô. Khi LRAC bắt đầu tăng thì công ty không có tính kinh tế nhờ qui mô, và nếu LRAC không đổi, thì công ty đang có lợi nhuận không đổi theo qui mô.

Theo đó ta thấy có đường chi phí trung bình dài hạn bao gồm một nhóm các đường chi phí trung bình ngắn hạn hay trong tiếng anh là short-run average cost – SRAC, theo đó thì mỗi đường biểu thị một mức chi phí cố định cụ thể. Như vậy nên, đường LRAC sẽ là đường chi phí trung bình ít tốn kém nhất với bất kì mức sản lượng nào.

3. Đặc điểm của cổ phiếu dài hạn

Như chúng ta đã biết thì cổ phiếu là một loại giấy rất phổ biến trên thị trường chứng khoán hiện nay nó để chứng nhận số tiền của nhà đầu tư đóng góp vào công ty phát hành. Cổ phiếu được hiểu là chứng chỉ được công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần trong công ty đó. Theo đó thì người nắm giữ cổ phiếu trở thành cổ đông, đồng thời là chủ sở hữu của công ty phát hành.

Thứ nhất, Không có kỳ hạn và cũng không hoàn vốn cụ thể ta có thể hiểu loại cổ phiếu được xem là giấy chứng nhận góp vốn của các cổ đông vào công ty cổ phần. Theo đó chỉ có một chiều góp vào và không thể hiện thời hạn hoàn vốn và không có kỳ hạn. Trường hợp khi công ty phá sản hay giải thể, thì sẽ không còn tồn tại cổ phiếu.

Thứ hai, Cổ tức không ổn định, phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đây là đặc điểm để nói về cổ tức cổ phiếu thường phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Và vì kết quả kinh doanh không ổn định nên cổ tức cũng không cố định theo. Khi doanh nghiệp làm ăn nếu phát đạt thì cổ đông được hưởng lợi nhuận nhiều hơn so với loại chứng khoán khác có lãi suất cố định. Ngược lại, khi làm ăn khó khăn hay thua lỗ, cổ tức có thể rất thấp hoặc cũng có thể không có cổ tức. Khi công ty phá sản cổ đông là người cuối cùng nhận được giá trị còn lại từ tài sản thanh lý.

Thứ ba, Giá của cổ phiếu biến động rất mạnh, chúng ta co thể thấy hiện nay thì giá biến động nhiều nhất ở trên thị trường thứ cấp. Do giá chịu sự tác động của nhiều nhân tố. Và nhân tố quan trọng nhất đó là kết quả kinh doanh của công ty.

Xem thêm: Phí nghĩa vụ nợ dài hạn hoãn lại là gì? Đặc điểm và ví dụ về phí nghĩa vụ nợ dài hạn hoãn

Thứ tư cổ phiếu dài hạn thường thì sẽ có tính lưu thông, Như vậy có tính lưu thông ở đây khiến cổ phiếu có giá trị như là một loại tài sản thực sự được thể hiện ở trong đặc điểm của cổ phiếu. Và nếu như tính thanh khoản giúp chủ sở hữu chuyển cổ phiếu thành tiền mặt khi cần thiết, thì tính lưu thông giúp chủ sở hữu cổ phiếu thực hiện nhiều hoạt động như thừa kế , tặng cho để thục hiện nghĩa vụ tài sản của mình.

Thứ năm, cổ phiếu dài hạn có đặc điêm là loại cổ phiếu có  tính thanh khoản cao. Theo đó cổ phiếu có khả năng dễ dàng trong việc chuyển hóa thành tiền mặt. Tuy nhiên, tính thanh khoản cổ phiếu phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Thứ nhất là do kết quả kinh doanh của tổ chức phát hành. Thứ hai là mối quan hệ cung và cầu trên thị trường.

Thứ sáu, cổ phiếu có tính Tư bản giả, ở đặc điểm này có thể hiểu đây là loại cổ phiếu có tính tư bản giả và tức là cổ phiếu có giá trị như tiền. Bên cạnh đó, nếu loại cổ phiếu không phải là tiền, nó chỉ có giá trị khi được đảm bảo bằng tiền. Mệnh giá của cổ phiếu cũng không phản ánh chính xác giá trị của cổ phiếu.

Thứ bảy, cổ phiếu dài hạn có đặc điểm về tính rủi ro cao nếu chúng ta xét về mặt lý thuyết, nếu đã phát hành thì cổ phiếu không đem lại rủi ro cho tổ chức phát hành. Mà rủi ro lúc này sẽ thuộc về chủ sở hữu cổ phiếu. Nguyên nhân chủ yếu hiện nay là giá trị của cổ phiếu được các nguyên nhân khách quan quyết định. Như kết quả kinh doanh của tổ chức phát hành, cũng như tình hình chính trị, kinh tế và xã hội của quốc gia, toàn thế giới… bên cạnh đó giá trị cổ phiếu còn ảnh hưởng bởi tâm lý của số đông nhà đầu tư. Khi gặp các thông tin không chính xác, sự thiếu hiểu biết của nhà đầu tư cũng khiến cổ phiếu rủi ro nhiều hơn. Tất nhiên, rủi ro cao thường sẽ đi kèm với kỳ vọng về lợi nhuận lớn. Điều này tạo nên sự hấp dẫn của cổ phiếu cho nhà đầu tư.

Trên đây là thông tin chúng tôi cung cấp về nội dung ” Dài hạn là gì? Đặc điểm, xu hướng dài hạn và cổ phiếu dài hạn” và các thông tin pháp lý khác dựa trên quy định của pháp luật hiện hành. Hi vọng những thông tin trên đây sẽ hữu ích đối với bạn đọc.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề