Lấy dịch tủy sống có ảnh hưởng gì không

  • Thường dùng miếng vá máu ngoài màng cứng

Điều trị đầu tay đối với đau đầu sau chọc dịch não tủy là

Tuy nhiên, nếu cơn đau sau khi chọc dịch não tủy kéo dài sau một ngày điều trị như trên, tạo miếng vá máu ngoài màng cứng [tiêm vài ml máu tĩnh mạch đã đông vào trong khoang ngoài màng cứng ở lưng] thường hiệu quả. Miếng vá bằng máu cũng có thể có hiệu quả đối với rò DNT tự phát hoặc sau chấn thương, hiếm khi cần phẫu thuật. Vá màng cứng bằng máu tự thân được cho là làm tăng áp lực trong khoang ngoài màng cứng, làm giảm tỷ lệ rò rỉ dịch não tủy, bất kể nơi nào có rò dịch não tủy. Nếu sản xuất DNT bình thường vượt quá tốc độ rò rỉ, các triệu chứng sẽ được giải quyết.

Nhiều người nghe thấy cái tên kỹ thuật chọc dịch não tủy [CDNT] đã thấy sợ, liên quan tới “não, tủy” cơ mà.Thế nhưng đây thật sự là một kỹ thuật an toàn và tối cần thiết trong chẩn đoán và điều trị nhiều loại bệnh, đặc biệt trong mùa dịch viêm não hiện nay. Cuộc trao đổi với TS.BS. Nguyễn Văn Tuận thuộc Khoa Thần kinh, Bệnh viện Bạch Mai sẽ giúp bạn đọc có cái nhìn đúng đắn hơn về một kỹ thuật khá phổ biến nhưng lại bị nhiều người lo ngại, né tránh này.

TS. Nguyễn Văn Tuận

PV: Thưa ông, dịch viêm não đang trong mùa cao điểm, vào bệnh viện thấy nhiều ca, nhất là trẻ em sốt nhập viện được chỉ định chọc dịch não tủy. Nhiều người lo ngại, không rõ có phải là lạm dụng kỹ thuật này không? Cụm từ “chọc dịch não tủy” nghe đã thấy “nguy hiểm”, có phải không ạ?

TS.BS. Nguyễn Văn Tuận: Đúng là nhiều người nghe nói đến “chọc dịch não tủy” là sợ. Bản thân tôi cũng đã gặp không ít trường hợp băn khoăn hỏi: “Bác sĩ ơi, không làm có được không?”. Thực tế là trước khi tiến hành chọc dịch não tủy, bác sĩ phải giải thích thật rõ ràng về quy trình để bệnh nhân, người nhà bệnh nhân hiểu, tránh lo lắng, và đây là thủ thuật CDNT không phải chọc tủy. Hơn nữa, chỉ định chọc dịch não tủy chỉ được đưa ra sau khi đã khám lâm sàng và cân nhắc đầy đủ lợi ích và biến chứng. Vì thế, chắc chắn bác sĩ chỉ đưa ra chỉ định này trong những trường hợp cần thiết. Đó là các trường hợp:

1. Lấy dịch não tủy làm xét nghiệm bổ trợ cho chẩn đoán các bệnh thần kinh như: Bệnh lý nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương gồm viêm màng não, viêm não, viêm tủy, viêm não tủy...; Bệnh lý ác tính màng não: ung thư màng não; Bệnh thần kinh ngoại biên gồm viêm đa rễ dây thần kinh, xơ cứng rải rác, hội chứng ép tủy, hội chứng tăng áp lực nội sọ lành tính. Các bệnh lý thần kinh chưa xác định được nguyên nhân như co giật, động kinh, lú lẫn hoặc rối loạn ý thức... bệnh đa dây thần kinh, bệnh đa rễ và dây thần kinh cấp và mạn tính; Tai biến mạch máu não [trường hợp nghi ngờ chảy máu dưới nhện có chụp cắt lớp vi tính bình thường, phải tiến hành CDNT để xác định chẩn đoán].

2. CDNT để điều trị: như để tiêm thuốc kháng sinh, thuốc chống nấm, thuốc chống ung thư, gây tê tủy sống hoặc lấy dịch não tủy trong hội chứng não úng thủy áp lực bình thường...

3. Lấy dịch não tủy để theo dõi kết quả điều trị như trong viêm màng não.

4. Chọc dò thắt lưng để tiến hành các thủ thuật; chọc tủy cản quang hoặc chụp bơm hơi não thất.

Chọc dịch não tủy là kỹ thuật rất cần thiết trong chẩn đoán và điều trị bệnh.

PV: Như vậy, kỹ thuật này có thể nói là khá phổ biến, được chỉ định trong nhiều bệnh. BS khi chỉ định CDNT phải cân nhắc lợi ích và biến chứng. Vậy nó có nguy cơ biến chứng nào không? Có ảnh hưởng gì tới tủy, não không?

TS.BS. Nguyễn Văn Tuận: Mọi lo lắng của người bệnh hay người nhà bệnh nhân có lẽ  xuất phát từ cái tên của kỹ thuật này. Nhưng cần nói rõ để mọi người hiểu rằng: Dịch não tủy là một “sản phẩm” từ các não thất. Chức năng của dịch này được ví nôm na như một cái đệm nước cho toàn bộ hệ thống thần kinh trung ương trong một hộp sọ, ống sống cứng, bao quanh làm cho não, tủy không bị đụng giập, xoắn vặn khi đầu cử động cũng như khi bị va đập. Bên cạnh đó, dòng di chuyển một chiều của dịch não tủy cũng có tác dụng chuyên chở một số chất cần thiết khác cho não và cơ thể. Một so sánh gần gũi khác là dịch não tủy có chức năng tương tự như nước ối với thai vậy. Trung bình mỗi ngày, dịch não tủy tiết ra và hấp thu lại khoảng 500ml và thay đổi khoảng 3-4 lần. Còn kỹ thuật CDNT chỉ lấy một lượng rất nhỏ trong khoang dịch não tủy để xét nghiệm [khoảng 5-6ml], không ảnh hưởng gì tới cơ thể. Vị trí chọc dịch não tủy cũng khá an toàn: ở trẻ sơ sinh là thóp, ở người lớn, trẻ lớn là vùng thắt lưng, khe liên đốt L3-L4, L4-L5, L5-S1. Vì tủy sống kết thúc [nón tủy] ở khe L1-L2 nên có thể nói CDNT ở các vị trí trên không hề chạm tới tủy sống, lại càng không ảnh hưởng gì tới não bộ cả. Vậy, mọi người không nên vì chữ “chọc dịch não tủy” mà suy đoán và lo sợ.

Còn biến chứng của kỹ thuật này sẽ không thể xảy ra khi bác sĩ khám lâm sàng cẩn thận, loại trừ các trường hợp chống chỉ định. Đó là các trường hợp: nhiễm khuẩn da hay mô mềm vùng chọc dò [tránh gây nhiễm khuẩn lan vào khoang dưới nhện]; tăng áp lực nội sọ; Nguy cơ chảy máu: các bệnh lý của máu, đang dùng thuốc chống đông. Đôi khi người bệnh có thể bị đau đầu sau CDNT, nhưng tình trạng này sẽ hết sau vài giờ hoặc ít ngày.

PV: Ông đã chứng kiến nhiều người ngần ngại không muốn thực hiện CDNT. Việc chậm trễ này có ảnh hưởng nguy hại nào không? Trong trường hợp đó, ông có lời khuyên nào đối với họ?

TS.BS. Nguyễn Văn Tuận: Trước hết, CDNT là một xét nghiệm bổ trợ rất quan trọng trong chẩn đoán, nhất là các bệnh viêm não, viêm màng não. Thậm chí có thể nói là xét nghiệm không thể thay thế được trong chẩn đoán và điều trị viêm màng não vì thế không thể chậm trễ. Việc cần làm là giải thích, chuẩn bị tốt tâm lý cho người bệnh yên tâm, không lo sợ, hợp tác tốt trong khi chọc dịch. Trong các bệnh khác, ví dụ như tai biến mạch máu não, có khi bệnh nhân vào cấp cứu chỉ chụp cắt lớp vi tính bình thường không phát hiện ra, chỉ khi CDNT mới thấy máu, xác định chảy máu dưới nhện. Nếu không CDNT mà cứ để vậy, bệnh nhân có nguy cơ vỡ mạch lại, gây tử vong. Kỹ thuật này có thể làm ở tuyến tỉnh, Trung ương, nơi có thể xét nghiệm dịch não tủy và do các bác sĩ thực hiện. Trong quá trình điều trị, kỹ thuật này có thể thực hiện nhiều lần mà không ảnh hưởng gì tới sức khỏe của bệnh nhân.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

 Lời khuyên của thầy thuốc

Theo TS.BS. Nguyễn Văn Tuận, nếu chậm trễ thực hiện CDNT sẽ khiến nguy cơ tử vong cao nhất là dịch viêm màng não do não mô cầu, ngoài ra có thể biến chứng nhiễm khuẩn huyết, viêm nặng nề hơn, áp-xe, tổn thương não nhiều hơn, hôn mê… Vì thế, khi đã khám lâm sàng, nghĩ tới viêm não, viêm màng não, loại trừ chống chỉ định, có yêu cầu làm CDNT, lời khuyên là cần làm sớm, càng sớm càng tốt. Đây là một xét nghiệm không hề đắt tiền, chỉ vài tiếng đồng hồ sau là có kết quả, từ đó, bác sĩ sẽ có phương án điều trị và bệnh sẽ được ngăn chặn.

Nguồn Suckhoedoisong.vn

Bác sĩ sẽ hướng dẫn cho người bệnh về thực phẩm, đồ uống và các loại thuốc do người bệnh có thể được yêu cầu không ăn uống sau nửa đêm trước ngày làm thủ thuật. Nếu đang dùng thuốc làm loãng máu [thuốc chống đông máu] hay có dị ứng với bất kỳ loại thuốc nào [như thuốc gây tê], người bệnh cần báo cho bác sĩ.

Chọc dò tủy sống thường được thực hiện tại một cơ sở ngoại trú hoặc bệnh viện. Trước khi thực hiện, người bệnh được yêu cầu thay áo choàng bệnh nhân. Thông thường, người bệnh nằm nghiêng và co đầu gối lên ngang ngực hoặc ngồi và nghiêng về phía trước, tựa vào một mặt phẳng ổn định. Những vị trí này khiến phần lưng sau uốn cong, mở rộng khoảng cách giữa các đốt sống, giúp bác sĩ dễ dàng chèn kim hơn.

Người bệnh cần tránh cử động và nên báo cho bác sĩ nếu cần di chuyển vì lý do nào đó. Đối với trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ, một người thân của trẻ sẽ giữ yên trẻ trong suốt quá trình thực hiện. Vùng lưng sẽ được sát khuẩn và phủ một tấm vô trùng.

Trong khi thực hiện

Thuốc gây tê cục bộ được tiêm vào phần lưng dưới của người bệnh để làm tê vị trí chọc dò ngay trước khi đưa kim vào. Một ống rỗng có kim mỏng được chích vào giữa hai đốt sống dưới [vùng thắt lưng], qua màng cột sống và vào ống sống. Người bệnh sẽ cảm nhận được một chút áp lực ở khu vực này.

Khi kim đã vào vị trí, bác sĩ có thể yêu cầu người bệnh điều chỉnh tư thế một chút. Áp lực dịch não tủy sẽ được đo, bác sĩ cẩn trọng rút một lượng dịch tủy nhỏ và đo lại áp lực. Nếu cần thiết, bác sĩ sẽ tiến hành tiêm thuốc. Hoàn thành thủ thuật, kim được tháo ra và vị trí chọc dò sẽ được băng lại.

Đối với trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, bác sĩ có thể kết hợp siêu âm để dễ dàng thực hiện và bảo đảm an toàn cho bệnh nhi.

Sau khi thực hiện

Chọc dò tủy sống thường kéo dài khoảng 45 phút. Bác sĩ có thể yêu cầu người bệnh nằm xuống sau khi làm xong thủ thuật.

Người bệnh cần nghỉ ngơi, tránh thực hiện những hoạt động nặng nhọc. Người bệnh có thể tham khảo thêm ý kiến từ bác sĩ về mức độ hoạt động cần thiết. Ngoài ra, người bệnh có thể uống thuốc giảm đau không kê toa có chứa acetaminophen giúp giảm đau đầu hoặc đau lưng.

Kết quả của xét nghiệm

Kết quả của chọc dò tủy sống là gì?

Các mẫu dịch tủy sống được gửi đến phòng thí nghiệm để phân tích. Tùy theo điều kiện khác nhau, giá trị tham chiếu cũng sẽ thay đổi.

Kỹ thuật viên phòng thí nghiệm sẽ kiểm tra những tiêu chuẩn như:

  • Tổng quan. Dịch tủy thường trong và không màu. Nếu dịch mờ, màu vàng hoặc hồng thì mẫu thử có thể cho thấy tình trạng chảy máu bất thường. Dịch tủy có màu xanh lá cây có thể chỉ ra dấu hiệu nhiễm trùng hoặc sự hiện diện của nồng độ bilirubin.
  • Protein [protein toàn phần và một số loại protein]. Mức protein toàn phần tăng cao hơn 45 miligam mỗi decilit [mg/dL] có thể chỉ ra nhiễm trùng hoặc một tình trạng viêm khác. Giá trị tại mỗi phòng thí nghiệm có thể khác nhau.
  • Số lượng bạch cầu. Dịch tủy sống thường chứa tới 5 bạch cầu đơn nhân trên mỗi microliter. Số lượng bạch cầu tăng có thể là dấu hiệu nhiễm trùng. Giá trị tại mỗi phòng thí nghiệm có thể khác nhau.
  • Đường [glucose]. Nồng độ glucose thấp trong dịch tủy sống là bất thường và có thể do viêm màng não do vi khuẩn, xuất huyết não. Nồng độ glucose cao hơn bình thường thường do bệnh tiểu đường.
  • Vi sinh vật. Sự hiện diện của vi khuẩn, virus, nấm hoặc các vi sinh vật khác trong mẫu dịch tủy có thể chỉ ra nhiễm trùng [như giang mai] hoặc những bệnh lý khác.
  • Các tế bào ung thư. Sự hiện diện của các tế bào bất thường trong dịch tủy sống như khối u hoặc tế bào máu chưa trưởng thành có thể chỉ ra một số loại ung thư.
  • Áp lực dịch tủy sống. Áp lực dịch tủy cao có thể xảy ra do sưng [phù] hoặc xuất huyết trong não, nhiễm trùng [như viêm màng não], đột quỵ hoặc các vấn đề về tuần hoàn khác. Áp lực dưới mức bình thường có thể báo hiệu tình trạng ống sống bị hẹp hoặc bị chặn.

Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để được tư vấn phương pháp hỗ trợ điều trị tốt nhất.

Hello Bacsi không đưa ra các lời khuyên, chẩn đoán hay các phương pháp điều trị y khoa.

Video liên quan

Chủ Đề