Kế sách đánh giặc của quân ta là

[Bqp.vn] - Ba lần kháng chiến chống Nguyên - Mông không chỉ là cuộc đọ sức quyết liệt giữa một đế quốc đầu sỏ cỡ thế giới với một dân tộc nhỏ bé nhưng kiên quyết đứng lên chống xâm lược để bảo vệ đất nước, mà còn là cuộc đấu tranh gay gắt về tài trí giữa hai nền nghệ thuật quân sự của Đại Việt và của đế quốc Nguyên - Mông.

1. Chiến lược

Trong lần kháng chiến thứ nhất [1258], sau một số trận đánh chặn kỵ binh Mông Cổ ở biên giới Tây Bắc và nhất là quân trận Bình Lệ Nguyên, vua Trần cũng như Lê Tần đều biết rằng không thể tiếp tục quyết chiến khi thế và lực quân địch còn rất mạnh, cho nên đã chủ trương rút lui để bảo toàn lực lượng. Trong lần kháng chiến thứ hai [1285], Trần Quốc Tuấn đã đóng đại bản doanh và chuẩn bị thế trận ở Nội Bàng để chặn đánh địch.

Nhưng trước sức tấn công như vũ bão của hàng chục vạn quân Nguyên, nhận thấy nếu tiếp tục quyết chiến với địch ở đấy thì chắc chắn ta không cản nổi địch mà còn bị tổn thất, nên Trần Quốc Tuấn đã kịp thời thay đổi ý định chiến lược, cho quân rút lui, trước mắt là bảo toàn được lực lượng và phá kế hoạch hợp vây của chúng. Trong cuộc kháng chiến lần thứ ba, do rút được kinh nghiệm hai lần trước, ta không chủ trương quyết chiến khi quân Nguyên đang ào ạt tiến công, mà vừa đánh chặn để tiêu hao địch, vừa rút lui để bảo toàn lực lượng, đồng thời dẫn dắt Thoát Hoan và Ô Mã Nhi vào thế trận ta đã chuẩn bị sẵn.

Để làm cho địch hao mòn suy yếu theo kế "dĩ dật đãi lao" - tức là lấy nhàn chờ mệt, lấy mạnh chờ yếu, lấy sung sức chờ hao mòn - tạo ra thế và thời cơ có lợi để phản công, bí quyết của thời Trần là phát huy sức mạnh của "cả nước đánh giặc", vận dụng linh hoạt các cách đánh: đánh nhỏ, đánh phân tán và đánh lớn, đánh tập trung, kết hợp chặt chẽ các hoạt động tác chiến của các lực lượng: quân triều đình, quân các lộ, các vương hầu và dân binh.

Chính nhờ tạo được thế trận chiến tranh nhân dân, cả nước đánh giặc, kết hợp được các cách đánh và các lực lượng cùng đánh nên quân và dân nhà Trần đã có được khả năng to lớn và tiến công địch ở khắp mọi nơi, mọi lúc, cả trước mặt và sau lưng; khiến quân thù đông mà tản, nhiều hóa ít, mạnh hóa yếu, từng bước bị tiêu hao, suy yếu, mệt mỏi và cuối cùng bị phản công - tiến công tiêu diệt. Kỵ binh Mông Cổ cũng như kỵ binh, bộ binh nhà Nguyên đều nổi tiếng là thiện chiến nhất đương thời; đặc biệt kỵ binh Nguyên - Mông đã từng chiến thắng ở khắp nơi, nhưng khi đến Đại Việt lại không thể "thi thố được tài năng" như ở những nơi khác. Vì chúng đã gặp phải một phương thức chống đối hoàn toàn khác lạ: đó là cuộc chiến tranh toàn dân dưới sự chỉ huy tài tình của một bộ tham mưu thống nhất. Đó là cách đánh "dĩ đoản chế trường", biết hạn chế sở trường của giặc, phát huy mặt mạnh của ta, từng bước chuyển hóa lực lượng; ta càng đánh càng mạnh, càng thắng, địch càng đánh càng yếu, càng thua.

Biết tránh quyết chiến khi tình thế không có lợi, nhưng khi đã tạo ra được thời cơ, tổ tiên ta ở thời Trần đã biết kịp thời nắm lấy thời cơ, kiên quyết tiến lên tiến công, phản công địch, giành thắng lợi quyết định.

Trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất, các nhà lãnh đạo nhà Trần đã kịp thời phát hiện được thời cơ chỉ sau 9 ngày quân địch vào được Thăng Long và đã nhanh chóng chuyển sang phản công. Cách thức phản công là chỉ giáng một đòn, dùng hình thức tập kích, ban đêm bất ngờ đánh úp vào kỵ binh Mông Cổ đang ngủ say trong lêu trại ở dã ngoại - nghĩa là vào nơi, vào thời điểm mà kỵ binh tỏ ra yếu nhất, thất thế nhất. Với cách đánh thông minh như thế của ta, kỵ binh Mông Cổ còn tên nào chỉ còn biết tìm đường mà chạy tháo thân.

Trong cuộc kháng chiến lần thứ hai khi thời cơ đến, ta tiến hành phản công theo cách: tiêu diệt từng bộ phận địch, đánh cánh quân yếu trước, đánh cánh quân mạnh sau, rồi từ tiêu diệt một bộ phận tiên lên tiêu diệt đại bộ phận.

Trong cuộc kháng chiến lần thứ ba, với thế trận đã chuẩn bị sẵn, ta chuyển sang phản công đồng thời, trên cả hai hướng thủy bộ và đánh địch trong một tình huống có lợi nhất: đó là lúc chúng đã hết sức suy yếu, mất tinh thần và đang tìm cách tháo chạy vê nước.

Để đôi phó với một kẻ địch đông, mạnh, có nhiều kinh nghiệm tác chiến chiến trường xa và luôn chủ trương đánh nhanh thắng chóng, tổ tiên ta đã khôn khéo biết khoét sâu vào yếu điểm cơ bản của chúng là vấn đề lương thảo, hậu cần.

Vì thế trong cả ba lần chiến tranh, đều chủ trương bằng mọi cách hạn chế, triệt đường lương thảo của chúng, gây cho địch một khó khăn tổ tiên ta không thể khắc phục được.

2. Chiến thuật

Nghệ thuật tổ chức và thực hành các trận quyết chiến chiến lược như Đông Bộ Đầu [1258], Chương Dương - Thăng Long [1285] và Bạch Đằng [1288] đã để lại những bài học về việc tạo thời cơ, chuẩn bị lực lượng cho địa hình, đánh vận động, đánh tiêu diệt trong một trận quyết chiến. Trong các trận đó, nổi bật nhất là trận Bạch Đằng [1288]. Trần Quốc Tuấn đã thực hành một kế hoạch tác chiến được tính toán kỹ càng, chuẩn bị chu đáo, từng bước dẫn dắt địch hành động theo ý định của ông, đưa chúng vào trận địa đã chuẩn bị sẵn và đúng thời điểm thuận lợi, kết hợp quân mai phục thủy bộ với bãi cọc ngầm được đóng sẵn và lợi dụng quy luật lên xuống của nước triều, để đánh trận tiêu diệt chiến lược.

Trong quá trình chiến tranh, các hình thức chiến thuật như tập kích, phục kích, đánh tiêu hao, quấy phá địch bằng các lực lượng đã được vận dụng linh hoạt và có hiệu quả. Khi quân Nguyên muốn đánh lớn thì ta đánh nhỏ, khi quân giặc muốn tập trung thì ta lại phân tán, buộc chúng đánh theo cách đánh của ta. Khi quân địch đã suy yếu thì ta phản công, tổ chức những trận đánh lớn, bất ngờ, địch không kịp và không thể tập trung đối phó được.

Trong những lần quân Nguyên đuổi theo đánh và định bắt vua Trần, quân ta thường khéo léo áp dụng các thủ đoạn nghi binh, đánh lừa địch, khiến cho tướng giặc tức tối, lồng lộn và cuối cùng bị sa vào bẫy phục kích của ta.

Khi địch mạnh, quân ta thực hiện vừa đánh chặn, vừa rút lui; khi địch thua, tháo chạy thì quân ta chặn đánh và truy kích kiên quyết, có hiệu quả v.v...

[Bách khoa Tri thức Quốc phòng toàn dân]

“Không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”

Tháng 9/1406, 20 vạn quân Minh xâm lược Đại Ngu. Để lung lạc ý chí của nhân dân ta, chúng lấy cớ “Phù Trần diệt Hồ”, cho khắc chữ lên rất nhiều tấm ván kể “mười tội lớn” của Hồ Quý Ly, đem thả xuống đầu nguồn để trôi theo dòng sông về xuôi. Đòn chiến tranh tâm lí ấy khiến một số quan chức bất mãn với nhà Hồ đi đón quân Minh và làm nội ứng cho chúng. Đến tháng 6/1407, dù kiên cường kháng cự với giặc nhưng cha con Hồ Quý Ly đều bị bắt. Trước đó, khi được Hồ Quý Ly giao phó việc quân sự, Hồ Nguyên Trừng nói: “Thần không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”. Đánh giá về sự thất bại của triều Hồ, Giáo sư sử học Phan Huy Lê đã viết: “Thất bại của Hồ Quý Ly có nguyên nhân của nó trong tổ chức và chỉ đạo chiến tranh và cả trong cải cách, nhưng đó là thất bại của một sự nghiệp anh hùng, của một con người anh hùng”.

 Đền thờ Anh hùng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi
tại Côn Sơn, Chí Linh, Hải Dương

Khi nhà Hồ thất bại, tông thất nhà Trần đã liên kết lại với nhau cùng nổi lên chống lại quân xâm lược cướp nước. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân cũng đã nổ ra. Sách “Bình định Giao châu lục” của nhà Minh viết: “Lúc bấy giờ từ Đông Quan về phía đông, giặc cướp nổi lên như ong, gọi là dẹp yên chỉ có một thành Giao Châu mà thôi”. Sử thần Ngô Thì Sĩ thì nhận xét: “Người Minh thống trị nước ta, tự nghĩ có thể lấy oai lực mà áp chế được; nhưng từ tháng 5 Đinh Hợi bắt được Hồ [chỉ cha con Hồ Quý Ly] rồi, tháng 10 vua Giản Định lại lên ngôi, nói đến vua Trùng Quang, trong 5, 6 năm, chiến tranh không thôi, mới biết là khó bình được”.

“Không đánh thành, chỉ đánh vào lòng người”

Năm 1416, Nguyễn Trãi trốn khỏi Đông Quan, và sau đó dâng “Bình Ngô sách” cho Lê Lợi ở Lỗi Giang, Thanh Hoá. Trong bài tựa “Ức Trai di tập”, Ngô Thế Vinh cho biết: “Bình Ngô sách” đã “hiến mưu chước lớn không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người”. Sau khi xem “Bình Ngô sách”, Nguyễn Trãi được Lê Lợi phong cho chức Tuyên phong đại phu Thừa chỉ Hàn Lâm viện, ngày đêm dự bàn việc quân.

Thuở đó, lòng dân còn phân tán. Muốn làm cho mọi người tin tưởng vào nghĩa quân Lam Sơn, Nguyễn Trãi sai người lấy mỡ viết vào lá cây trên rừng tám chữ: “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” [Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi]. Kiến, sâu ăn mỡ khoét lá rỗng thành chữ, lá rụng trôi theo dòng nước đến khắp mọi nơi. Nhân dân cho là “ý Trời” thương dân mượn tay Lê Lợi, Nguyễn Trãi khử bạo trừ hung nên rủ nhau nườm nượp về Lam Sơn tụ nghĩa và dốc hết lòng vào cuộc kháng chiến thần thánh. Kết quả là “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/ Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào” [Bình Ngô Đại Cáo].

Trong truyền thuyết Hồ Gươm, việc Đức Long Quân “trao” kiếm khắc hai chữ “Thuận Thiên” cho Lê Lợi và sau đó sai Rùa Vàng đòi lại kiếm tại hồ Lục Thủy [tên khác là hồ Tả Vọng] sau khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi chính là cũng là một cách “đánh vào lòng người”. Người tạo ra truyền thuyết này chính là Nguyễn Trãi. Sau khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, nội dung của truyền thuyết đã được Nguyễn Trãi đưa vào trong sách “Lam Sơn Thực lục”.

Ngoài những sự việc nói trên, Nguyễn Trãi còn giúp Lê Lợi làm nhiều việc thu phục lòng dân khác. Ngày 25 tháng Giêng năm Ất Tỵ [1425], khi nghĩa quân tiến vào Nghệ An, các chỉ huy khởi nghĩa Lam Sơn đã ra lệnh cho tướng sĩ: “Dân ta khốn khổ vì giặc đã lâu, phàm đến châu huyện nào mảy may không được xâm phạm”.

Nhân nghĩa là cội nguồn của cuộc sống. Có nhân nghĩa thì thành công, không nhân nghĩa thì thất bại. Bọn giặc Minh xâm lược đã: “Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế/ Gây binh, kết oán trải hai mươi năm/ Bại nhân nghĩa, nát cả đất trời” [Bình Ngô Đại Cáo]. Cho nên, “Lam Sơn Thực lục” cho biết, sau khi lệnh trên được thi hành, “nhân dân chẳng ai là không vui mừng, tranh nhau đem trâu, rượu ra đón khao dùng vào quân dụng”. Khi nghĩa quân Lam Sơn cho một bộ phận đột nhiên quay trở lại đánh úp Tây Đô thì nhân dân Thanh Hóa đều thi nhau đến cửa quân, xin hăng hái ra sức để mưu báo đền. “Lam Sơn Thực lục” cho biết thêm nữa, khi tiến ra Bắc, nghĩa quân Lam Sơn được nhân dân các lộ Đông Kinh cùng phiên trấn các xứ hân hoan, tranh nhau đem bò, dê, lương thực đến để khao tướng sĩ. Cuối năm 1426, khi quân ta tiến ra vây thành Đông Đô thì: “trong ba ngày đầu, nhân dân kinh lộ và các phủ châu huyện cùng các tù trưởng ở biên trấn đều tấp nập đến cửa quân, xin ra sức liều chết để đánh thành giặc các nơi”.

Việc tổ chức Hội thề Đông Quan, để cho Vương Thông rút quân về nước cũng là một cách “đánh vào lòng người” của Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi đã đưa ra lý do là: “Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức/ Chẳng những mưu kế kì diệu/ Cũng là chưa thấy xưa nay”. Bởi lúc đó, thế ta đã thắng hoàn toàn, vì “Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng/ Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng” [Bình Ngô Đại Cáo]. Việc tiêu diệt đạo quân Vương Thông “đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng” không chỉ giúp “dập tắt muôn đời chiến tranh”, “mở ra muôn thuở thái bình” mà còn giúp cho nhân dân ta và cả quân giặc và triều đình nhà Minh thấy được lòng nhân nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn.

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” [Bình Ngô Đại Cáo] - khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi cũng chính là do đây là đội quân lấy nhân nghĩa làm đầu. Có nhân nghĩa sẽ tạo ra được một đội quân không có kẻ thù nào có thể địch lại được. Đó chính là đỉnh cao của binh pháp “Đánh vào lòng người” của Nguyễn Trãi! Bởi thế, sau khi Vương Thông rút quân về nước, nhà Minh đã không dám xâm lăng nước ta thêm một lần nào nữa!

Nguồn: DanvanTrunguong.

Video liên quan

Chủ Đề