Hàn Mặc Tử đường lên dốc đá

NGÔ ĐÌNH MIÊN

Đôi lần, nhân những đêm có trăng, chọn thời khắc bảng lảng ánh hoàng hôn, tôi cùng mấy người bạn chí cốt lên Lầu Ông Hoàng uống rượu. Trên đoạn đường dẫn vào Tháp Chăm Phố Hài (1), trải giấy báo xuống đất, chúng tôi ngồi giữa đỉnh đồi Bà Nài. Kế bên về hướng Đông là lâu đài đổ nát của ông hoàng Ferdinand d'Orléans, Công tước De Montpensier(2), cháu nội của hoàng đế Pháp Louis Philippe I. Xa hơn một chút nữa là ngọn đồi Ngọc Lâm, nơi yên nghỉ thiên thu giữa sơn thủy hữu tình của nhà thơ yêu nước Nguyễn Thông (3). Nào ai biết chỗ nào đã từng là nơi tình tự của Mộng Cầm và Hàn Mặc Tử!? Từ độ cao trên một trăm mét so với mặt biển này, nhìn về phía Tây Nam là trung tâm thành phố đang dần lên đèn, vẫn còn thấy rõ được Tháp Nước đứng lặng lẽ gần trăm năm nay bên bờ con sông Cà Ty duyên dáng, mềm mại chảy ngang qua Phan Thiết.

   Tháp Chăm Phố Hài như một “chứng nhân” của lịch sử hơn một ngàn năm, một biểu tượng kiên cường không chịu khuất phục của con người trước thiên nhiên. Đây là nơi ngụ của thần Shiva, là một trong ba ngôi tối linh của Ấn Độ giáo, vừa là thần Hủy diệt, vừa là thần Sáng tạo; bởi theo quan niệm Ấn Độ giáo, hủy diệt chỉ là hành động tất yếu để đi đến sáng tạo. Phải chăng vì vậy mà khi công chúa Pô Sah Inư gặp duyên tình oan trái vì khác tôn giáo với lãnh chúa Pô Sahaniempar theo đạo Hồi ở vùng đất Hamu Kăm (Ma Lâm ngày nay), thần Shiva giữ đúng nguyên tắc của mình, không can dự vào, mặc cho công chúa chịu đau khổ đến cuối cuộc đời. Và có lẽ cũng chính từ hủy diệt mà sinh ra sáng tạo, nên đã giúp cho công chúa toàn tâm toàn ý tập trung vào việc lớn của cộng đồng là xây dựng các công trình thủy lợi và dạy dân trong vùng làm nông nghiệp. Vào thế kỷ 15, nhân dân tôn công chúa Pô Sah Inư là thần và xây đền thờ nằm sát cạnh tháp Phố Hài; tuy đã trở thành phế tích mấy trăm năm nay, nhưng hằng năm, bà con người Chăm vẫn thường xuyên về đây làm lễ thành tâm cầu an, cầu mưa: “Từ ngày thành đất, thành người/ Thành cây lúa, có thần trời Sa Nư…/ Xin Ngài về hưởng lễ cho/ Để dân cầu được ấm no, an bình” (trích bài tụng ca cúng thần Pô Sah Inư dịch ra lời Việt). Công chúa Pô Sah Inư vẫn luôn hằng sống trong tâm thức người Chăm, nhất là người Chăm ở vùng Hamu Kăm của lãnh chúa Pô Sahaniempar xưa.

   Không biết công tước De Monpensier có bị dẫn dắt bởi thần Shiva không, mà ông đã đến đây để dựng nên tòa lâu đài trong khung cảnh còn hiển hiện rõ những dấu tích suy tàn của quá khứ lịch sử. Để từ đó, dân gian truyền khẩu về một huyền thoại mới, sau truyền thuyết về công chúa Pô Sah Inư năm trăm năm, như là hồn cốt để định danh Lầu Ông Hoàng. Mùa đông năm đó, trên đường đi du ngoạn, ghé lại xứ Phan, công tước De Monpensier làm quen với một người con gái đẹp vùng biển có nước da rám nắng mặn mòi quyến rũ, rồi đem lòng yêu thương. Không thể đem người yêu về nước Pháp được, vì ông đã có gia đình riêng, ông bèn cho xây dựng lâu đài với danh nghĩa là nơi nghỉ mát và săn bắn, nhưng thực ra đây là “vườn địa đàng”, là nơi để ông và người yêu gặp gỡ nhau mỗi năm, sống với nhau những ngày hạnh phúc. Sau đó vài năm, người con gái Việt sinh hạ một bé gái xinh đẹp có gương mặt Á Đông giống mẹ. Sinh xong thì bị hậu sản mất. Công tước than khóc cho người yêu vắn số, khóc cho mối tình tử biệt. Một hầu cận của ông, người dân tộc Chăm, nói với ông rằng, vì công tước đến vùng đất do thần Shiva ngự trị, xây cất lâu đài mà không xin phép thần; mặt khác, lâu đài lại áng ngay cửa quay về hướng Đông của Tháp, nên Thần đã sử dụng quyền năng quở phạt công tước phải chịu mất đi một phần trái tim của mình, nhưng bù lại, đã trao cho ông một sinh linh mới mẻ (sự thể hiện quyền năng hủy diệt và sáng tạo của thần Shiva chăng?). Nghe theo lời người hầu, trước khi đem con gái về Pháp nuôi dưỡng, công tước mang lễ vật đến cầu xin thần Shiva phù hộ cho giọt máu duy nhất của mối tình Pháp - Việt được lớn lên trưởng thành. Ông giao quyền quản lí lâu đài cho một người bạn và vì không muốn khơi lại nỗi đau đớn cũ, ông thề vĩnh viễn không quay trở lại Việt Nam, trở lại Đồi Bà Nài, nơi chôn chặt mối duyên tình ngắn ngủi của ông. Nghe nói, sau này, người con gái của công tước có quay lại, tìm về đồi Bà Nài, đứng khóc hồi lâu bên lâu đài đổ nát rồi trở về Pháp. Từ đó, không ai nghe tin tức gì về họ nữa. Người đời sau không cần tìm hiểu câu chuyện tình kia là có thật hay không, mà luôn tin nó như tin vào huyền thoại; những huyền thoại đẹp đã hình thành nên chính tại nơi này, như chuyện tình tan vỡ của công chúa Pô Sha Inư và lãnh chúa Pô Sahaniempar, như mối tình lãng mạn “chôn hận nghìn thu” của thi sĩ Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm… cùng với biết bao chuyện tình ngang trái nữa đã từng ghi dấu vào hư không nơi đây. Không hiểu sao, tôi luôn có một cảm nhận đặc biệt; đó là tất cả hồn vía của những người trong các chuyện tình đẹp đớn đau kia đã làm cho những dây ti- gôn mọc lên rồi dần phủ đầy những ngọn đồi chung quanh lâu đài đổ nát, lớp lớp nở hoa thành hình triệu triệu trái tim hồng tan vỡ. Nhà thơ TTKH đã từng phát hiện ra sắc hoa ti gôn này:
   Bảo rằng: “hoa giống như tim vỡ
   Em sợ tình ta cũng vỡ thôi”
   (...)
   Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
   Tựa trái tim phai tựa máu hồng…
   (Hai sắc hoa ti gôn- TTKH)

   Ngày nay, cả khu vực xung quanh lâu đài được mọi người gọi tên chung là Lầu Ông Hoàng. Chỉ tiếc rằng, ngành quản lí văn hóa và du lịch của địa phương không có chỉ dẫn cụ thể nên cả người địa phương lẫn khách du lịch, phóng viên các đài truyền hình (cả trung ương và địa phương), các báo viết trong nước và các trang mạng đều lầm tưởng khu vực đồn bốt với cụm lô cốt của Pháp và chế độ cũ để lại, cách Tháp Chăm về hướng Nam khoảng một trăm mét, là lâu đài của công tước De Monpensier. Vì vậy, hình ảnh lâu đài được đưa lên đài truyền hình, trên báo mạng và báo in là một cụm lô cốt có tháp canh khá cao xấu xí với nhiều lỗ châu mai và lổ chổ vết đạn. Thực ra, vị trí chính thức của lâu đài nằm cách Tháp Chăm khoảng sáu trăm mét về hướng Đông, gần hơn với mộ cụ Nguyễn Thông dưới chân núi Cố (Ngọc Sơn). Ngày còn nhỏ, tôi và các bạn cùng lớp thường hay đi chơi nơi này, nên còn nhớ khá rõ. Cách nay hai mươi năm, tôi có đưa một người bạn ở xa đến đây, thấy phế tích lâu đài đã bị cây bụi gai và dây hoa ti- gôn bao phủ. Năm nay, tôi có trở lại với mục đích chụp những tấm hình mới nhất về phế tích lâu đài để làm tư liệu (nếu chậm trễ thì phế tích lâu đài sẽ hoàn toàn biến mất), thấy khu vực lâu đài không còn như trước nữa. Người dân địa phương đã chiếm hết khu vực lâu đài để làm nhà ở. Trong đó, có hai ngôi nhà nhỏ được xây ngay giữa nền lâu đài. Chủ của một trong hai ngôi nhà trên là lao động nghề biển còn trẻ, lấy vợ sinh con, ba mẹ cho ra riêng, nhưng không có đất ở nên đã lên đây cất nhà. Tôi nói với người chủ nhà đó rằng, ông chủ lâu đài sắp về đòi lại nền nhà; rồi giả bộ hỏi anh ta: Căn nhà lầu của Ông Hoàng nằm ở đâu? Chủ nhà chỉ về hướng Tây đúng vị trí tháp canh của cụm lô cốt, nói đó là Lầu Ông Hoàng. Anh ta không hề biết rằng mình đang ở ngay chính giữa nền một lâu đài đã đi vào huyền thoại… Tại sao lại có thể nhầm lẫn về một sự thật hiển nhiên trước mắt như vậy? Tôi đã tìm hiểu khá lâu về vấn đề trên và rồi thử đưa ra một cách lí giải hợp lí. Câu trả lời này được những bậc tiền bối hiểu biết và nhiều bạn bè sống cùng thời với tôi tại Phan Thiết đồng tình. Nguyên nhân sâu xa của sự việc này, trước hết là do hành vi của con người theo “quy luật của sự tiện lợi”, nhất là đối với những người chỉ chú tâm đến lợi ích cục bộ và cá nhân. Tiếp theo, hành vi đó được sự tiếp ứng của hệ thống truyền thông chính thống và không chính thống trong môi trường “xa lộ thông tin cao tốc” hiện nay, thì càng nhanh chóng đẩy sự việc đi xa sự thực hơn nữa… Sau 1945, lâu đài bị phá hủy. Hệ quả này không có gì phải bàn, bởi vì công tước De Monpensier là người Pháp, thực dân Pháp. Từ sau 1975, mọi người lo cho cái ăn còn chưa xong, hơi đâu mà đi tìm di tích của một thời. Vậy là thời gian vô tình dần làm hoang phế toàn bộ khu vực Lầu Ông Hoàng trong kí ức của mọi người. Đến khi con người dư ăn, dư mặc, nhu cầu hưởng thụ về văn hóa đòi hỏi phải được đáp ứng ngày càng cao hơn, nhiều hơn và cấp bách hơn. Nhà nước phải bỏ ra nhiều kinh phí để trùng tu di tích lịch sử - văn hóa kết hợp với khai thác du lịch. Di tích được trùng tu đầu tiên ở khu vực Lầu Ông Hoàng là Tháp Chăm Phố Hài. Du khách khắp nơi nghe tiếng Lầu Ông Hoàng đến đây chỉ thấy Tháp Chăm, bèn hỏi Lầu Ông Hoàng ở đâu? Không có câu trả lời cụ thể chính xác. Đến lúc này, “quy luật của sự tiện lợi” phát huy tác dụng. Cách Tháp Chăm trong vòng một cây số còn một số nền móng của các công trình kiến trúc tương đối lớn được xây dựng từ những thập niên đầu thế kỉ XX. Nhưng để “tiện lợi”, khỏi mất công đi tìm kiếm, xác thực đâu là công trình lâu đài của Ông Hoàng, người ta (kể cả người có trách nhiệm và không có trách nhiệm) bèn chọn ngay cụm lô cốt với hệ thống hầm ngầm liên hoàn kiên cố có tháp canh khá cao chỉ cách Tháp Pô Sah Inư về phía Nam một trăm mét kia để giới thiệu đây là di tích Lầu Ông Hoàng. Lúc đầu còn nói lấp lửng. Đến lúc này thì câu nói lấp lửng trước kia đã trở thành lời tuyên bố chắc nịch với ngón tay trỏ chỉ ngay tháp canh lô cốt: “Đây chính là… Lầu Ông Hoàng!”. Tôi đã thấy Đài trên truyền hình VTV, trong một chương trình “Mỗi tháng một chuyến đi”, nhằm quảng bá về những nét đẹp thiên nhiên, văn hoá của Việt Nam, trên màn hình ti vi chiếu rõ hình ảnh cụm lô cốt với tháp canh cùng giọng nói của cô thuyết minh, người Phan Thiết: “đây là Lầu Ông Hoàng”. Hôm vừa rồi, đến chụp ảnh phế tích, khi ghé lại thăm Tháp Phố Hài, tôi có hỏi cô gái ngồi bán vé tham quan, vị trí Lầu Ông Hoàng ở đâu? Cô gái vô tư chỉ thẳng tháp canh với dáng vẻ rất đinh ninh…

   Vì vậy, nếu ai đó có sự quan tâm đến sự thật trên đây, thì việc cần làm ngay là lên tiếng đính chính lại cho đúng để “trả lại tên cho em”. Lầu Ông Hoàng là Lầu Ông Hoàng. Tháp canh lô cốt là tháp canh lô cốt (chính quyền địa phương vừa cho dựng tấm bia ghi lại chiến tích trận tập kích vào đồn Tây tại đây của bộ đội Việt Minh vào năm 1947). Bài viết này của tôi có thể không đủ sức làm thay đổi được gì; nhưng dù sao nó cũng là một gợi ý để cho những người trung thực, có lòng yêu mến huyền thoại Lầu Ông Hoàng sẽ tiếp tục tìm hiểu một cách khách quan nhằm hoàn thành việc “của César hãy trả lại cho César”…

   Những ngọn đồi đẹp chung quanh chỗ nhóm lãng tử chúng tôi ngồi uống rượu dưới trăng này, giống như một trang sách mở của cuộc sống đang vận động theo dòng thời gian, đã ghi chép lại những gì mà con người qua bao thời đại để lại bằng dấu vết vật chất hay bằng những câu chuyện đã trở thành huyền thoại trong trí nhớ của cộng đồng. Chung quanh Tháp Chăm Phố Hài, nơi thần Shiva, vị thần chủ của Ấn Độ giáo, ngụ trong ngôi tháp hơn một ngàn năm tuổi kia, đã và đang triển khai sức mạnh hủy diệt đồng thời với sáng tạo ở trần gian, thể hiện qua những chứng tích hiển hiện nơi đây. Đó là ngôi đền của công chúa Chăm không còn dấu vết trên mặt đất nằm kề bên. Đó là lâu đài đã bị hủy hoại hoàn toàn của ông hoàng người Pháp. Đó là những lô cốt còn sót lại của một thời chiến tranh giết chóc cùng với những âm hồn binh lính chưa tan của cả các bên chiến tuyến Việt, Pháp, Mỹ, Chăm. Có hương hồn cụ Nguyễn Thông - quan lại triều Nguyễn, nhà thơ yêu nước, như còn hiển linh đâu đây dưới chân núi Cố. Còn có cả một “thành phố của cõi vĩnh hằng” mênh mông - nghĩa trang thành phố, nơi yên nghỉ của trăm ngàn người đủ giai tầng, tôn giáo, lứa tuổi, ngành nghề trong xã hội… Thêm vào đó là huyền thoại đẹp về những mối tình, dù đó là tình yêu ngang trái… Đôi lúc, tôi lẩn thẩn nghĩ, Lầu Ông Hoàng như là nơi linh khí hội tụ, nơi tập hợp những yếu tố cần và đủ của một xã hội hợp chủng hòa bình của thế giới bên kia với: Vương quyền, tôn giáo, huyền thoại, triều thần, quan lại, tướng lĩnh, quân lính, nhà thơ… và ngàn vạn linh hồn thuộc các giai tầng của xã hội.

   Chính vì vậy, những ai đến đây, nếu có chung mối đồng cảm, sự quan hoài về lẽ nhân sinh, sẽ dễ dàng nhận ra được sự tập trung nhiều chứng tích chồng lớp lên nhau với mật độ cao, như muốn hiển lộ chứng minh cho sự biến dịch vô thường của trời đất, của kiếp người, nhằm làm sáng tỏ chân lí tối hậu của cuộc sống như là sự nối tiếp nhau của cái sinh ra và mất đi, những cuộc hạnh ngộ rồi chia li, những sung sướng rồi khổ đau, những hạnh phúc rồi tuyệt vọng… Và dù rằng khi còn sống, con người có tranh đoạt, chém giết lẫn nhau vì những động cơ, lí do bất kì nào chăng nữa; thì cuối cùng cũng phải trở về bên nhau, nằm bên nhau, “sống” hòa với cát bụi để cùng xanh một màu cỏ với mùa xuân... Tiếp nhận được điều đó sẽ giúp chúng ta thấy yêu hơn cuộc sống này, biết sống và sống tốt đẹp hơn.

   Có lẽ cụ Nguyễn Thông đã sớm nhận ra điều huyền diệu đó nên đã chọn nơi đây làm nơi trở về, tự nguyện làm một trang trong quyển sách thiên nhiên kì bí nhưng luôn sáng tỏ kia. Vì vậy, cụ đã cho xây trước ngôi mộ và tự viết sẵn lời văn sẽ khắc trên bia mộ của chính mình: “Năm Đinh Sửu (tức năm 1877- người viết), tôi làm Bố chánh Bình Thuận thường xuống các huyện, nhân đi qua thôn Ngọc Lâm, phía Đông phủ Hàm Thuận, lên cao nhìn quanh, thấy sông núi có tình, tôi lấy làm thích, đứng nhìn lâu không chán (…). Vì thế tôi bảo học trò Nguyễn Văn Đường nhặt đá núi, thuê thợ xây đắp (…). Mộ xây xong (…), ở trong bỏ trống để đợi khi dùng đến. Sau lúc tôi trăm tuổi, chẳng biết hồn phách còn nhớ đến núi này nữa hay không, hay là rồi cũng tiêu tán hết? Điều ấy không thể biết được. Nhưng hoa rừng trăng bể, buồm ngư phủ, nhà tiều phu vẻ lạ khói mây đổi thay, hình thù giao thẫn(4) chập chờn, thì sau này vẫn có thể cống hiến một cuộc thích mắt cho những nhà thơ tới đây viếng cảnh vậy”(5). ¬Với cảm nhận của một nhà thơ, nhà giáo dục, nhà kinh tế, Nguyễn Thông đã tiên tri đúng những việc sẽ diễn ra sau này. Đó là đã có biết bao nhà thơ, nghệ sĩ đã gởi lại một phần tâm hồn của mình ở nơi đây và hiện nay, toàn bộ khu vực từ đồi Bà Nài kéo dài qua khỏi Ngọc Sơn, hướng về phía biển đã trở thành đất vàng cho du lịch trong nước và quốc tế…

   Có những đêm, chúng tôi ngồi uống rượu tới khuya, dưới ánh trăng hạ tuần mờ ảo, trong cơn ngà ngà say; nhìn lại phía sau lưng mình là nghĩa trang Phan Thiết, nơi tiếp nhận sự hủy diệt cuộc sống để làm cho cuộc sống mới tiếp tục sinh sôi và phát triển, như nguyên lý quyền năng của thần Shiva, những ngôi mộ gần con đường du lịch Phan Thiết – Mũi Né phản chiếu ánh sáng từ những ngọn đèn đường cao áp làm rực lên màu của cõi bình yên lặng lẽ. Tôi tưởng tượng ra hình ảnh chàng thi sĩ trẻ tuổi Hàn Mặc Tử(6), tay trong tay cùng nàng thơ Mộng Cầm lãng mạn đi những bước ngập ngừng vào giữa những hàng mộ đang sáng lên kia rồi xa khuất dần vào bóng đêm của thế giới vĩnh hằng. Bỗng nghe bạn tôi hát vang lên giữa mênh mông đất trời để tưởng nhớ chàng thi sĩ tài hoa, si tình, bạc mệnh: “Đường lên dốc đá nhớ xưa hai người đã một lần đến. Tình yêu vừa chớm xót thương cho chàng cuộc sống phế nhân...”(7).

   Phan Thiết xưa đã từng là nơi sản sinh những nhạc sĩ tài hoa có bài hát để đời, như: Minh Quốc (bài hát “Tình đồng chí”), Nguyễn Hữu Thiết (bài “Gởi người tôi yêu”), như Dzũng Chinh (các bài “Những đồi hoa sim”, “Tha La xóm đạo”)… và Trần Thiện Thanh, tức ca sĩ Nhật Trường với những nhạc phẩm nổi tiếng một thời và đến nay vẫn đang được các ca sĩ hát thu vào đĩa CD, DVD, như: Khi người yêu tôi khóc, Lâu đài tình ái, Hoa biển, Chiếc áo bà ba, Hàn Mặc Tử.v.v…

   Cách nay mấy năm, ngành chức năng quản lí về văn hóa và du lịch của tỉnh thực hiện thu âm đĩa CD tuyển chọn những bài hát hay về Bình Thuận, nhằm mục đích quảng bá văn hóa Bình Thuận đến với mọi người trong cả nước, trong đó có mục tiêu phát triển du lịch của tỉnh. Rất tiếc là những người tuyển chọn đã không chọn một bài bài hát gắn với Bình Thuận từ lâu mà cho đến nay (và có lẽ cả mai sau nữa- tôi nghĩ như vậy) hầu như ai cũng đã ít nhất một lần nghe qua, vẫn còn nhớ và có thể còn hát được (nhất là hát karaoke, hát trong các cuộc liên hoan, giao lưu văn nghệ…). Đó chính là ca khúc lừng danh “Hàn Mặc Tử” của Trần Thiện Thanh. Chắc tác giả bài hát trên cũng không cần có tên mình trong tuyển tập. Cần hơn có lẽ chính là những người bình thường, nhưng yêu mến quê hương Phan Thiết, Bình Thuận. Đối với ngành du lịch, ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, không vì vậy mà bị thiệt thòi về doanh thu. Nhưng, nếu bài hát đó càng được hát lên, vang xa chừng nào thì cụm di tích được xem là một trong những địa chỉ du lịch điểm nhấn của Bình Thuận: Lầu Ông Hoàng và Tháp Chăm Phố Hài càng thêm nổi tiếng, cũng đồng nghĩa với việc thu hút thêm nhiều khách du lịch đến với Bình Thuận. Ngay tại địa điểm du lịch này, tôi đã từng gặp những em nhỏ bán CD có bài hát “Hàn Mặc Tử”. Em nhỏ mời tôi:

   - Mua dĩa hát “Đường lên dốc đá” đi chú!

   Tôi mua liền mà không chút đắn đo. Em nhỏ nhận tiền, cầm chiếc túi nhựa đựng dĩa hát vung vẫy trên cao, quay lưng vừa đi vừa nghêu ngao hát: “Đường lên đốc Đá nhớ xưa hai người tú ti tù tí…”. Cậu bé này thật là…!
________________________
(1): Tháp Phố Hài là một tháp Chăm còn sót lại của Vương quốc Chămpa xưa, nằm trên đồi Bà Nài, thuộc phường Phú Hài, cách trung tâm thành phố Phan Thiết 7 km về phía Đông Bắc. Nhóm tháp này có phong cách kiến trúc Hòa Lai - một trong những phong cách nghệ thuật cổ của Chămpa. Tuy chỉ có kích thước vừa, nhưng nó chắt lọc được những tinh hoa kỹ thuật kiến trúc và nghệ thuật trang trí của người Chăm xưa tạo nên vẻ uy nghiêm và kỳ bí. Tháp Phố Hài còn tương đối nguyên vẹn. Khoảng cuối thế kỷ thứ 8 đầu thế kỷ thứ 9, người Chăm xây dựng tháp này với mục đích để thờ vị thần Shiva - là một trong những vị thần Ấn Độ giáo được sùng bái và tôn kính. Thế kỷ 15, xây dựng thêm một số đền thờ với kiến trúc đơn giản để thờ công chúa Pô Sah Inư. Từ năm 1990 đến năm 2000, di tích được chính quyền tỉnh Bình Thuận tu bổ, tôn tạo. Năm 1991, di tích này được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia. Tháng giêng âm lịch hàng năm, nơi đền Pô Sha Inư, người Chăm làm lễ cầu mưa, cầu an..
(2): Cái tên Ferdinand d'Orléans, Công tước De Montpensier, cháu nội hoàng đế Pháp chính là nguồn gốc của địa danh Lầu Ông Hoàng ngày nay. Vào năm 1910, Công tước De Montpensier qua Việt Nam du lịch và săn bắn. Nhìn thấy phong cảnh tại những ngọn đồi phía Đông Phan Thiết rất đẹp, đứng ở đây có thể phóng tầm mắt về phía Nam chừng 1 km, thấy rõ những ngọn sóng biển lao xao. Ông đã mua lại từ nhà cầm quyền Pháp ở Bình Thuận (công sứ Garnier) quả đồi Bà Nài, chọn mảnh đất rộng ở độ cao cách mặt biển 107m, cách Tháp Chăm Phố Hài về hướng Đông chừng 600 mét để xây dựng lâu đài, làm nơi nghỉ ngơi trong các kỳ săn bắn và du lịch sau này. Gần lâu đài còn có các nhà hàng, khách sạn phục vụ cho giới thượng lưu. Toàn bộ năm ngọn đồi quanh biệt thư của Công tước De Montpensier, sau đó được gọi chung là Lầu Ông Hoàng. Đây là nơi tạo nên huyền thoại về mối tình thơ lãng mạn Mộng Cầm- Hàn Mặc Tử, đã làm tốn biết bao giấy mực của người đời sau. Ngày 21-2-1911 biệt thư được xây dựng, nền móng được xây bằng đá xanh, cao 2m, với 15 bậc cấp lên xuống, sàn nhà lót gạch bông, phía dưới nền là hệ thống những bể chứa nước mưa liên hoàn nhau, chung quanh đúc bê tông, có máy bơm dẫn nước lên một lầu nước cao phiá sau, đủ dùng quanh năm suốt tháng. Nóc nhà lợp bằng đá phiến xanh được chở từ Pháp sang, vừa đẹp lại không sợ bị gió biển làm tróc mái. Biệt thự có diện tích 536m2, gồm mấy chục phòng dành cho khách, phòng thết tiệc, phòng làm việc, phòng cho gia nhân... Phòng nọ tiếp với phòng kia qua hành lang có mái che. Bên trong các phòng kể cả tiền đình được trang trí sang trọng, tiện nghi. Giường ngủ, bàn ghế, tủ đều đóng bằng loại gỗ quý. Có đường trải đá từ dưới chân đồi chạy quanh co, lối vào trước sảnh đường có trồng cây lấy bóng mát. Bên ngoài tường rào được thả dây leo ăng- ti- gôn nở hoa màu hồng rực rỡ. Ngoài ra còn có nhà máy phát điện riêng, nhà để xe, chuồng ngựa, nhà bếp, nhà tắm, bể chứa nước. Sau ngày khánh thành, chủ nhân ông Ferdinand D’orléans chính thức đặt tên ngôi biệt thự của mình là “NID D’AIGLE” tức Tổ Chim Ưng.
(3): Xem chú thích ở bài “Bước lên hoa đỏ” trong tập này.
(4): Giao là con thuồng luồng; thẫn là loài ngao bể.
(5): Trích “Bài kí ở mộ tại Ngọc Sơn” của Nguyễn Thông trong tập “Nguyễn Thông- con người và tác phẩm” do Ca Văn Thỉnh và Bảo Định Giang sưu tầm và biên soạn. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1984.
(6): Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử (tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh 22/9/1912 – mất 11/11/1940) là một trong những nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam
(7): Trần Thiện Thanh sinh ngày 12 tháng 6 năm 1942 tại Phan Thiết, là hậu duệ của nhà nho yêu nước Trần Thiện Chánh (1822- 1874). Ông mất vào ngày 13 tháng 5 năm 2005 tại nhà riêng ở thành phố Westminster, Quận Cam, California, Hoa Kì vì bệnh ung thư.