Giáp nhị ở đâu

Nằm ở phía Nam thủ đô Hà Nội, tại phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai có một ngôi đình thờ Thành hoàng làng không phải là các thần linh bản địa, mà là một vị thần đã sáng lập ra Đạo giáo ở Trung Quốc – đó là Thái Thượng Lão Quân [Lão Tử]. Đây là một hiện tượng thật ít gặp trong các ngôi đình làng của người Việt trên đất Thăng Long – Hà Nội.

Theo nhiều học giả thì sau ngày ra đời ở Trung Quốc, Đạo Giáo đã theo chân các nhà cai trị, trí thức cùng một số phù thuỷ phương Bắc bắt đầu du nhập sang nước ta vào khoảng thế kỷ thứ II sau công nguyên. Khác với Nho giáo, khi sang nước ta, Đạo giáo đã bắt gặp ngay những nét tương đồng trong tín ngưỡng bản địa [tục sùng bái thần linh, ma thuật, phù phép…] nên đã nhanh chóng phát triển. Hơn nữa, vốn mang trong mình tư tưởng phản kháng giai cấp thống trị nên Đạo giáo đã được người Việt Nam sử dụng làm vũ khí chống lại kẻ đô hộ.

Kiến trúc thờ tự của Đạo giáo gọi là quán. Ở Thăng Long – Hà Nội có rất nhiều quán nổi tiếng như Bích Câu đạo quán, Huyền Thiên cổ quán, Đồng Thiên quán, Nghinh Tiên vọng quán, Trấn Vũ quán, Linh Tiên quán, Lâm Dương quán, Hội Linh quán… Quán thờ Thái Thượng Lão Quân ở nước ta hiện vẫn còn ở rất nhiều nơi, song Lão Tử được thờ ở đình Giáp Nhị lại là một trường hợp khá đặc biệt. Ngài được thờ theo nghi thức thờ Thần hoàng làng.

Theo sử liệu thì đình Giáp Nhị có nguồn gốc từ một ngôi đình nhỏ thờ Thổ thần. Đến thế kỷ XVIII, ông Bùi Huy Bích [người làng Giáp Nhị] thi đậu Hoàng giáp khoa Kỷ Sửu [1769] được triều đình thăng giữ chức Đốc trấn Nghệ An, ông đã cho rước bài vị của Thái Thượng Lão Quân từ Nghệ An về thờ tại đình làng.

Thái Thượng Lão Quân được Đạo giáo đồng nhất với Lão Tử, người đã xây dựng nền học thuyết tư tưởng của Đạo giáo Truyền thuyết, sử sách ghi chép về ngài khá phong phú, hiện trong đình Giáp Nhị vẫn còn lưu giữ được cuốn thần tích chép chuyện Lão Tử và một số nhân vật trong Bát Tiên cùng nhiều hoành phi, câu đối có nội dung nói về Đạo giáo. Qua đây, có thể thấy Thái Thượng Lão Quân từ việc thờ trong các di tích Đạo quán đã trở thành một vị Thành hoàng che chở, bảo hộ cho cuộc sống của dân làng, đã làm phong phú thêm trong kho tàng văn hoá dân gian của thủ đô Hà Nội, đồng thời, thể hiện sự đa dạng, phong phú và cởi mở của người Việt đối với các thần linh ngoại bang.

Di tích đình Giáp Nhị đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa. Quy mô kiến trúc hiện nay là kết quả của những lần trùng tu ở thế kỷ XX. Các hạng mục của đình được quy hoạch trong một khuôn viên khép kín gồm nghi môn, tiền tế, trung đình và hậu cung. Nghi môn đình làm dạng tứ trụ. Đỉnh hai trụ chính đắp đôi nghê chầu. Sau các trụ là 3 cổng có hình thức kết cấu giống nhau. Cổng chính có dạng giống như tam quan chùa, hai cổng bên nhỏ hơn chồng diêm hai tầng 4 mái giả ống, đỉnh mái đắp hình rồng chầu mặt trời, thân các trụ đều bổ khung viết câu đối chữ Hán.

Qua nghi môn là khoảng sân khá rộng, phía bên phải đình là giếng đình. Đình Giáp Nhị gồm 5 gian tiền tế, 5 gian trung tế và 3 gian hậu cung tạo thành hình chữ đinh. Nhà xây kiểu tường hồi bít đốc, mái ngói ta, giữa bờ nóc đắp hình rồng chầu mặt trời, hai bên gắn hai đầu kìm. Bộ khung các nếp nhà được làm bằng gỗ, kết cấu theo kiểu: “giá chiêng chồng rường con nhị”. Phần trang trí trên kiến trúc chủ yếu tập trung trên các con rường, đầu dư, bẩy hiên với các đề tài: rồng lá, lá lật, vân xoắn, vân dấu hỏi… với đường nét tinh tế, khéo léo, đã nâng giá trị chạm khắc gỗ ở di tích lên rất cao.

Hệ thống di vật của đình đa dạng về thể loại và chất liệu như đồ gỗ, đồ đồng, đồ gốm sứ… Những bức cửa võng, hương án, sập thờ, cuốn thư, ngai thờ, kiệu rước, hoành phi, câu đối, bát bửu, lư hương… với đề tài truyền thống như: “tứ linh”, “tứ quý”, cúc mãn khai, rồng chầu mặt trời, rồng lá, hổ phù… có thể ví như một bảo tàng mỹ thuật thu nhỏ minh chứng cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của di tích qua từng thời kỳ khác nhau.

Cũng như các ngôi đình thờ Thành hoàng khác, hàng năm, dân làng Giáp Nhị lại mở hội để tưởng nhớ đến công lao của Thành hoàng làng đối với dân bản xã. Trước kia, hội mở trong 4 ngày [từ ngày 13 đến ngày 16 tháng Hai âm lịch], trong đó: Ngày 13 làm lễ tế mộc dục, ngày 14 tế mã, ngày 15 tế rước nước, ngày 16 tế hoàn cung. Kiệu rước thành hoàng được rước ra miếu, rồi rước về chùa Sét. Vào những năm mở hội lớn đoàn rước đi xa hơn xuống tận chùa Tự Khoát lấy nước giếng về tế thần. Lễ vật dâng cúng thần hoàng gồm trâu thui, xôi trắng, lợn, trầu cau, oản quả. Ngày nay, lễ hội đình Giáp Nhị chỉ tổ chức trong một ngày 15 tháng Hai [âm lịch]… Các sản vật dâng cúng Thành hoàng có hương đăng oản quả. Ngoài phần lễ còn duy trì được nhiều trò chơi dân gian truyền thống như đấu vật, cờ tướng…

Với những giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc, đình Giáp Nhị đã được UBND thành phố Hà Nội Quyết định xếp hạng di tích cấp Thành phố vào ngày 7/12/2002.

 [embeddoc url=”/wp-content/uploads/2017/10/Đình-Giáp-Nhị.docx” width=”0px” height=”0px” download=”all” viewer=”microsoft” text=”Tải xuống: dinh giap nhi.docx”]

Hits: 1322

PHỐ NGHĨA ĐỊA "ĐỘC NHẤT VÔ NHỊ"Ở HÀ NỘI

Hàng chục ngôi mộ nằm rải rác xen lẫn các ngôi nhà tại ngõ 88 phố Giáp Nhị [quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội].

Phố nghĩa địa ở Hà Nội

Phố Giáp Nhị có khá nhiều ngõ ngách, đi sâu vào bên trong tại ngõ 88 xuất hiện một nghĩa trang nhỏ với hàng chục ngôi mộ nằm giữa khu dân cư đông đúc và những ngôi nhà cao tầng.

Những ngôi mộ không chỉ nằm trong khuôn viên nghĩa trang mà còn nằm rải rác trong nhiều ngõ ngách, và ở những vị trí rất...lạ.

Hai ngôi mộ nằm ngay mặt tiền của những ngôi nhà trong ngõ 88. Người dân sống lâu năm ở đây cho biết, các ngôi mộ đều của các gia đình gốc ở làng Giáp Nhị đã có từ khi đây còn là đồng ruộng.

Theo thời gian, người đông lên, nhà cửa được xây dựng, đất trống không còn, thay thế vào đó là khu phố đông dân cư xây kề với các ngôi mộ. Trong ảnh là một ngôi mộ nằm phía trước ngôi nhà ở hẻm 88/38/9. 

Một ngôi mộ lớn nằm trước mặt tiền ngôi nhà 3 tầng. Cổng vào ngôi nhà còn hẹp hơn cả chiều ngang ngôi mộ.

Nhà người sống và "nhà" người đã khuất nằm đối nhau ở một con hẻm nhỏ.

Có khá nhiều ngôi mộ nằm phía trước mặt tiền các ngôi nhà song mọi sinh hoạt của người dân đều diễn ra bình thường, ngay bên cạnh ngôi mộ.

Có ngôi mộ nằm bên trong khuôn viên nhà, bên cạnh là một ngôi mộ ngay sát cổng ra vào.

Nhiều ngôi mộ được ốp đá cầu kỳ nằm rải rác trong những con hẻm sâu.

Có khá nhiều ngôi nhà có mộ nằm ngay cửa ra vào.

Một nghĩa trang nhỏ khác với hơn chục ngôi mộ tại một con hẻm nhỏ.

Người dân ở phố Giáp Nhị đã quen với hình ảnh các ngôi mộ ngay cạnh nhà, các em nhỏ cũng vui đùa ngay cạnh nghĩa trang mà không tỏ ra e dè sợ sệt.

Một quán bia hơi với các bàn ăn được kê ngay cạnh mộ.

Hữu Nghị

21/03/2020

Nguồn gốc tên gọi địa danh Giáp Nhất, Giáp Nhị… Giáp Bát ở Hà Nội

Làng Thịnh Liệt tên Nôm là làng Sét. Tên cổ nhất của làng ở thế kỷ XV là Cổ Liệt. Xa xưa, Thịnh Liệt có 9 giáp, từ giáp Nhất đến giáp Cửu. Về sau, do bất đồng trong việc tổ chức đình đám, Giáp Cửu tách thành xã riêng, chính là làng Phương Liệt [Vọng]. Thịnh Liệt còn lại 8 giáp, sau tách thành 8 làng riêng, lấy tên giáp gọi cho tên làng là : Giáp Nhất, Giáp Nhị, Giáp Tam v.v...

Mỗi giáp - làng đó có một họ chính, đông đinh. Vì thế, tên họ được gọi luôn cho tên giáp: Giáp Nhất được gọi là Bùi Tây; Giáp Nhị - Bùi Đông; Giáp Tam - Đỗ Trung; Giáp Tứ - Đỗ Nội; Giáp Ngũ - Đỗ Ngoại; Giáp Lục - làng Sét; Giáp Thất - Lê thôn...

Đầu thế kỷ XX, chỉ còn lại Giáp Nhất, Giáp Nhị, Giáp Tứ; Giáp Lục và Giáp Bát vì Giáp Tam và Giáp Ngũ nhập vào Giáp Nhị, Giáp Thất nhập vào Giáp Bát. Năm thôn này được nâng lên thành 5 xã độc lập, cùng với xã Tương Mai hợp thành tổng Thịnh Liệt, còn gọi là tổng Sét, huyện Thanh Trì.

Sau năm 1954, 4 thôn: Giáp Nhất, Giáp Nhị, Giáp Tứ và Giáp Lục thuộc xã Đoàn Kết; còn Giáp Bát thuộc xã Hoàng Văn Thụ. Đến năm 1961, xã Đoàn Kết, gồm cả Giáp Bát thuộc huyện Thanh Trì. Năm 1964, xã Đoàn Kết đổi tên thành Thịnh Liệt. Năm 1973, Giáp Bát cắt về tiểu khu [từ năm 1981 là phường] Giáp Bát, Giáp Lục thuộc phường Tân Mai, quận Hai Bà Trưng. Từ đó đến nay, Thịnh Liệt chỉ còn 3 thôn Giáp Nhất, Giáp Nhị và Giáp Tứ, nay là phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai.

Thịnh Liệt cách trung tâm thành phố khoảng 6 km về phía Tây Nam. Giao thông đường thuỷ trước đây của vùng Sét khá thuận tiện nhờ hệ thống các sông: Tô Lịch, Sét Lừ, Kim Ngưu bao quanh. Trước đây, sông Sét còn thông với sông Tô Lịch. Thuyền bè vẫn qua lại trao đổi hàng hoá được và thời Lê - Trịnh, thuyền rồng của vua chúa dạo chơi có thể từ Hồ Tây về đến Thịnh Liệt.

Sông Sét còn thông với sông Lừ, đưa hàng hoá từ vùng chợ Đại - Cống Thần ở Sơn Nam Hạ đến chợ Dừa [ngoài cửa ô Thịnh Quang] và có thể thông với sông Kim Ngưu chảy về phía Đông, qua xóm Bến làng Hoàng Mai ra sông Hồng, tạo nên nhiều ao, hồ, đầm... Sử cũ nhiều lần nhắc tới đầm Thịnh Liệt [còn gọi là đầm Đại] cạn khô nước, chứng tỏ, đầm này chiếm vị trí quan trọng trong kinh tế nông nghiệp của vùng, ảnh hưởng đến cả mặt tâm linh, không chỉ với cư dân trong vùng mà với cả triểu đình.

Về đường bộ, vùng Sét [địa phận Giáp Nhất] nằm trên tuyến đường “Thiên lý”, “Đường cái quan” [nay là Quốc lộ 1], là đường giao thông Bắc - Nam chính trước đây.

Với vị trí trọng yếu trên đây, Thịnh Liệt còn có những lợi thế để phát triển kinh tế. Xưa dân làng chủ yếu sản xuất và chế biến nông phẩm, cung cấp cho dân nội thành. Chợ Sét thuộc Giáp Lục ở giữa làng, là chỗ thuyền buôn bán các loại nông sản từ chợ Đại đưa lên.

Làng Sét trước đây có ngôi đình chung ở Giáp Bát thờ thành hoàng là thần Tam lang và ngôi chùa chung ở Giáp Lục. Sau này khi tách riêng thành các làng thì mỗi giáp xây đình riêng, vẫn thờ thần Tam lang và thờ thêm những vị thần của mỗi thôn, ví dụ, Giáp Lục đã đưa tổ nghề của mình là Nguyễn Chính vào thờ trong đình và tôn làm Thành hoàng làng; Giáp Nhị thờ Lão tử; Giáp Tứ thờ Ngũ vị thần cùng với Tam lang; Giáp Nhất thờ Ngũ vị thần và Hắc Y tướng quân; Giáp Thất thờ Ngũ vị thần. Riêng Giáp Bát có 2/3 dân theo Công giáo, có nhà thờ, còn lại 1/3 là dân thờ thần, Phật.

Bạn đang xem: Nguồn gốc tên gọi địa danh Giáp Nhất, Giáp Nhị… Giáp Bát ở Hà Nội

Đình Giáp Tứ, 1991

Hàng năm các làng - giáp ở Thịnh Liệt vào đám chung từ ngày 13 đến 16 tháng 2 âm lịch, rước thần cùng tập trung ở chùa Sét, tục gọi là chùa Bà Chúa để nhớ ơn tu bổ của bà chúa họ Lê và họ Đặng. Trước đây, khi còn đủ cả 9 Giáp, vào đám “rước chạ”, tập trung ở Nghè bên Giáp Ngũ, cả chín giáp phải phục dịch. Giáp Nhất làm trưởng có quyền đánh trống ra hiệu lệnh mở cửa đình và sắp đặt công việc; Giáp Cửu sửa soạn kiệu; Giáp Bát chuẩn bị cờ quạt, khiêng trống, các giáp khác có phần việc đã phân công về tế lễ.

Bên cạnh những đặc điểm chung, mỗi làng - giáp ở Sét có một đặc điểm riêng về kinh tế, xã hội, tính cách, phong thái, tục lệ ...

-------------------------

TS. Bùi Xuân Đính

Báo Hà Nội Mới - 15/02/2004

Video liên quan

Chủ Đề