Dòng sông nin được người a rập goại là gì năm 2024

và đổ nước vào Địa Trung Hải. Chảy qua Ai Cập, Nam Sudan, Uganda và Ethiopia. Sông Nile là một con sông quốc tế, dài

hơn 6000 km, chảy qua 11 quốc gia trên lục địa Châu Phi. Nó

luôn là nguồn sống quan trọng của cư dân trong thung lũng của

nó, mang lại màu mỡ dồi dào và phục vụ cho sự phát triển của nền văn minh Ai Cập cổ đại. Nó cũng có tác động đến kinh tế,

văn hóa, du lịch và cuộc sống hàng ngày của lục địa châu Phi.

Tuyến đường Bắc-Nam của nó đi qua 11 quốc gia châu Phi. Nó có một lưu vực rộng khoảng 3,4 triệu km vuông, chiếm hơn

10% diện tích đất liền của châu Phi. Chiều rộng tối đa của nó là

2,8 km. Vì hầu hết các khu vực mà sông Nile chảy qua đều khô

và rất ít mưa. Con sông này đã trở thành một con sông kỳ lạ. Điều này có nghĩa là dòng nước của nó bắt nguồn từ những

vùng nước có khí hậu thuận lợi cho mưa.

Hệ thống sông của nó bao gồm hai con sông, sông Nile trắng đại diện cho 80% trong số đó và sông Nile xanh đại diện cho 20% mùa mưa. Thung lũng sông Nile là một trong những thung lũng sông màu mỡ nhất trên thế giới và cư dân của khu vực này có thể làm nông nghiệp.

Lưu vực sông Nin

Lưu vực sông Nin chiếm khoảng 1/10 diện tích châu Phi là nơi phát triển và tàn lụi của nhiều nền văn minh cổ đại. Cư dân hai bên bờ sông Nin là một trong những nhóm người đầu tiên biết trồng trọt, làm nông nghiệp và sử dụng cày. Lưu vực sông Nin được giới hạn ở phía Bắc bởi biển Địa Trung Hải, phía Đông bởi dãy Biển đỏ (Red Sea Hills) và Cao nguyên Ethiopia, phía Nam bởi cao nguyên Đông Phi, trong đó có bao gồm hồ Victoria là một trong 2 nguồn của sông Nin, phía Tây tiếp giáp với lưu vực sông Chad, sông Công gô và trải dài xuống Tây nam đến dãy Marrah thuộc Sudan.

Các Phụ lưu của sông Nin

Không có sự thống nhất về nguồn của sông Nile, bởi vì mặc dù hồ Victoria lớn, nó được cung cấp bởi các con sông khác như sông Kagera ở phía tây Tanzania. Đổi lại, điều này cũng được cung cấp bởi nguồn của nó, sông Rukarara (Rukarara), đã được đổi tên khi chảy vào Kagera.

Một nguồn khác của sông Nile ở xa hơn là sông Luvyironza, đổ vào sông Ruvubu và hợp nhất với sông Kagera, sau đó đổ vào hồ Victoria. Đây là nguồn lâu đời nhất được biết đến và vẫn là một trong những nguồn lớn nhất ở phía nam sông Nile. Nile Trắng còn được gọi là Thượng Nile , hợp nhất với Nile Xanh ở Khartoum hoặc thủ đô Khartoum của Sudan. Lúc này đoạn

Ngoài ra, khu vực này còn nổi tiếng với số lượng lớn cỏ và các loài thân dài như sậy và tre. Các loại cây được tìm thấy trên đường mòn bao gồm Hasab gai, gỗ mun và keo thảo nguyên, có thể cao tới 14 mét.

Sông Nile có đa dạng sinh học đa dạng và thích nghi với điều kiện sống ở nhiệt độ cao. Động vật có vú bao gồm hà mã, voi, hươu cao cổ, okapi, trâu và báo. Các loài như diệc xám, mòng biển lùn, chim cốc lớn và thìa thông thường đã được tìm thấy trong khu hệ gia cầm. Trong số các loài bò sát, thằn lằn theo dõi sông Nile, con cá sấu sông Nile lớn thứ hai trên thế giới, và loài rùa cạn đặc biệt nổi bật. Sông Nile là nơi sinh sống của khoảng 129 loài cá, 26 loài trong số đó là loài đặc hữu, có nghĩa là chỉ có loài cá này sinh sống.

Vai trò của sông Nin

Sông Nile có vai trò vô cùng to lớn đối với Ai Cập, có thể tóm gọn vai trò của sông Nile đối với Ai cập bằng những đại ý dưới đây:

  • Cung cấp nguồn nước quan trọng cho đời sống và sản xuất.
  • Bồi đắp nên đồng bằng châu thổ màu mỡ.
  • Huyết mạch giao thông chính nối tất cả các vùng của Ai Cập, cũng như nối Ai Cập với các nước láng giềng.

-> Sinh ra nền văn minh sông Nin rực rỡ thời cổ đại.

Sông Nile, Ai Cập ngày nay trở thành một trong những điểm du lịch hút khách (Ảnh: Internet )

Theo Wikipedia, năm 3150 TCN (trình tự thời gian của bảng niên đại Ai Cập), nền văn minh Ai Cập được thống nhất dưới thời pharaoh Narmer, thường được gọi là Menes. Đây cũng là vị vua đầu tiên của đế chế Ai Cập cổ.Trải qua nhiều đời pharaon với những biến động lịch sử, nền văn minh Ai Cập cổ đã tạo ra được vô số thành tựu, từ tín ngưỡng - tôn giáo, văn hóa cho đến xây dựng, tiêu biểu là kim tự tháp - một trong 7 kỳ quan thế giới cổ còn sót lại tới ngày nay.

1. Kiến trúc

Không thể không kể đến các công trình kiến trúc vĩ đại

như Kim tự tháp, Tượng nhân sư khi nhắc tới nền văn

minh Ai Cập cổ đại. Cho đến nay, những công trình này

vẫn đứng sừng sững như tượng đài bất tử, khẳng định sự

tồn tại của một nền văn minh thịnh vượng cổ xưa. Những

bí ẩn xoay quanh chúng vẫn là đề tài thu hút các nhà khảo

cổ, và là điểm đến lý tưởng với những người yêu thích du

lịch khám phá.

Theo các học giả, đặc trưng của kiến trúc Ai Cập cổ đại là

sự khan hiếm gỗ. Nguyên vật liệu chính mà người Ai Cập

cổ dùng để xây dựng là gạch và đá. Quan niệm, tín

ngưỡng mà người Ai Cập cổ đại gửi gắm trong những

Wikipedia). Bên trong mỗi kim tự tháp đều ẩn chứa nhiều bí ẩn vừa khiến con người tò mò, lại vừa khiến họ sợ hãi. Nhiều hình vẽ khắc họa được tìm thấy bên trong các kim tự tháp cũng cho ta thấy nghệ thuật phong phú của nền văn minh cổ xưa nhất trong lịch sử loài người, với đề tài phong phú: cảnh sinh hoạt ngày thường; thế giới khi con người đi vào cõi vĩnh hằng.

2. Chữ viết

Năm 1894, một nhóm khảo cổ học đã tìm thấy những ký hiệu tượng hình được khắc trên các bức tranh trong các di tích tìm thấy khi tiến hành khai quật "thành phố diều hâu" Nekhen, một trong những đền thờ cổ nhất ở Ai Cập.

Ký tự cổ Ai Cập được khắc trên đá (Ảnh: Wikipedia)

Theo các nhà khoa học, chữ viết Ai Cập cổ ra đời từ khi xã hội hình thành giai cấp. Chữ tượng hình là cơ bản và thông dụng nhất tại nền văn minh này, còn đối với các khái niệm phức tạp hơn, người Ai Cập cổ dùng phương pháp mượn ý. Tuy nhiên, chữ tượng hình và mượn ý vẫn chưa đủ để giao tiếp, vậy nên họ tạo ra những hình vẽ biểu hiện âm tiết, rồi từ đó trở thành chữ cái và được sử dụng suốt hơn 3000 năm. Trong nền Ai Cập cổ đại có khoảng 1000 chữ tượng hình, trong đó có 24 chữ cái.

Loại chữ cổ này được khắc trên đá, gỗ, đồ gốm, viết trên vải gai, da và giấy papyrus - loại giấp thông dụng nhất của người Ai Cập cổ. Mực được làm từ quả bồ hóng và bút được chế tác từ thân cây sậy.

Vào cuối thế kỷ 20, các nhà khoa học đã truy ra mẫu tự Phoenix được biến tấu từ văn tự Ai Cập cổ. Các dân tộc Do Thái, Ả Rập, Hy Lạp và La tinh đã dựa theo mẫu tự này để tạo nên chữ viết của riêng mình. Có thể nói, ngôn ngữ của chúng ta dùng ngày nay đều thừa hưởng di sản từ chữ viết Ai Cập cổ.

3. Thiên văn học

Theo nhiều nhà khoa học, 12 cung hoàng đạo mà chúng ta biết đến ngày nay đã được người Ai Cập cổ đại khám phá từ hàng ngàn năm trước. Ở thời kỳ đó, thiên văn học phát triển nhiều hơn chúng ta tưởng. Họ không chỉ biết tới các chòm sao, mà còn phát minh ra công cụ đo lường thời gian từ việc xác định bóng mặt trời. Tuy nhiên, dụng cụ này chỉ xem được khi có ánh mặt trời. Về sau, họ đã phát minh ra đồng hồ nước có thể tính giờ cả ngày lẫn đêm. Ở nền văn minh cổ ấy, người Ai Cập cũng đưa ra

thiết cho rằng những bức tranh ấy mô tả cuộc sống ở nơi ngoài Trái Đất. Tuy nhiên, có ý kiến phản bác lại giả thiết đó, họ cho rằng nếu nghĩ như vậy là đã xúc phạm tới các di sản của người Ai cập cổ đại.

Hình khắc trên tường trong hầm mộ khá giống với sinh vật ngoài hành tinh (Ảnh: Internet)

4. Thuật ướp xác

Thuật ướp xác của người Ai cập cổ đại ra đời từ năm 2700 TCN và kéo dài tới tận thế kỷ thứ 5. Đây được xem là một trong những tục lệ mai táng phức tạp nhất trong lịch sử nhân loại. Người Ai Cập cổ tin vào sự vĩnh hằng, và ướp xác là một trong những cách để người đã khuất có thể tiến vào thế giới bên kia, nơi Chúa trờ che chở họ.

Nhờ y học phát triển mà họ đã tìm tòi ra được phương pháp ướp xác có thể nói là hoàn hảo nhất. Nguyên tắc của việc ướp xác là dựa trên việc làm mất nước của cơ thể, lấy đi các bộ phận dễ bị phân hủy như nội tạng và bộ não. Sau đó, thi thể được bảo quản trong natron khô (một loại muối nhằm làm khô thi hài) khoảng 70 ngày. Bước cuối là nhồi hương thảo vào phần rỗng của nội tạng, xoa dầu thơm và quấn vải một cách cẩn thận lên thi thể. Xác ướp được chôn cất cùng với những món đồ mà người Ai Cập tin rằng người đã khuất sẽ sử dụng khi sang thế giới khác.

Bộ phận duy nhất không bị lấy ra khỏi cơ thể người chết là trái tim; vì người Ai Cập cổ cho rằng trái tim là hiện thân của trí tuệ, người chết sẽ cần nó khi sang thế giới bên kia.

5. Tín ngưỡng

Ngay từ thủa sơ khai, người Ai Cập cổ đại đã tin vào các vị thần và thế giới bên kia. Họ xây các đền thờ chịu sự quản lý của các vị tư tế đại diện cho vua, nơi những vị thần trú ngụ để bảo vệ và che chở cho họ. Thông thường, lãnh địa của các vị thần được xây dựng cách biệt với thế giới bên ngoài và chỉ có quan chức của ngôi đền mới được phép ra vào thường xuyên. Chỉ đến các ngày lễ thì tượng thần mới được đem ra thờ phụng công khai cho người dân tới thờ. Ngoài ra, mọi người có thể thờ riêng các bức tượng thần trong nhà họ và đeo bùa để chống lại các thế lực xấu.

Ngôi đền Horus tại Edfu, Ai Cập (Ảnh: Wikipedia)

Mèo là con vật linh thiêng trong nền văn minh cổ xưa này. Người Ai Cập cổ đại rất yêu động vật, nhưng đặc biệt thờ phụng mèo, ướp xác chúng sau khi chúng qua đời và thờ mèo như một vị thần. Hầu hết các gia đình thời Ai Cập cổ đều nuôi mèo và tin rằng mèo mang lại may mắn cho họ.

Mèo là con vật linh thiêng với người Ai Cập cổ đại (Ảnh: Internet)

Trong tín ngưỡng của nền văn minh cổ này, đôi mắt của loài mèo là ánh sáng soi lối cho họ trong đêm tối. Nếu xảy ra hỏa hoạn trong nhà, mèo sẽ được ưu tiên cứu trước. Và với những ai vô tình hay cố ý làm chết mèo, người đó sẽ phải đối mặt với hình phạt đáng sợ của đám đông: bị ném xuống một hố đầy rắn độc.

Và thờ chúng như một vị thần. (Ảnh: Internet)

Với những gia đình không có điều kiện ướp xác mèo, họ sẽ để tang mèo bằng cách cạo lông mày của mình. Năm 1888, người ta đã phát hiện hàng chục ngàn xác ướp mèo trong một ngôi mộ lớn. Khám phá này có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với lĩnh vực khảo cổ.