Dấu hiệu nào không thuộc phạm trù hao mòn hữu hình
Trả lời : Show · Hao mòn tài sản: Trong quá trình được sử dụng, do chịu tác động của nhiều nguyên nhân nên tài sản cố định bị hao mòn dần. Sự hao mòn này có thể chia thành hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình: + Hao mòn hữu hình là sự giảm dần về giá trị sử dụng và theo đó giá trị của tài sản cố định giảm dần; + Hao mòn vô hình là sự giảm dần thuần tuý về mặt giá trị của tài sản cố định mà nguyên nhân chủ yếu là do sự tiến bộ của KH&CN; · Khấu hao tài sản: Để thu hồi lại giá trị của tài sản cố định do sự hao mòn trên, cần phải khấu hao tài sản cố định. Khấu hao tài sản cố định là sự phân bổ dần giá trị tài sản cố định vào giá thành sản phẩm nhằm tái sản xuất tài sản cố định sau khi hết thời gian sử dụng. Về phương pháp tính hao mòn tài sản và khấu hao tài sản: · Tính hao mòn tài sản: Trước hết phải xác định thời gian sử dụng của tài sản cố định. Thời gian này được xác định căn cứ vào tuổi thọ kỹ thuật của tài sản cố định, có tính đến sự lạc hậu, lỗi thời của tài sản cố định do sự tiến bộ của KH&CN, mục đích sử dụng và hiệu quả sử dụng. Cách tính như sau: GH = NG/T và TH = 1/T , trong đó: - GH: Giá trị hao mòn cơ bản bình quân hàng năm của tài sản cố định; - NG: Nguyên giá của tài sản cố định bao gồm giá mua thực tế phải trả, các chi phí vận chuyển, bốc dỡ, lắp đặt, chạy thử, các khoản lãi vay đầu tư cho tài sản cố định khi chưa bàn giao và đưa vào sử dụng, các khoản thuế và lệ phí trước bạ nếu có; - T : Thời gian sử dụng của tài sản cố định: là thời gian tổ chức KH&CN dự kiến sử dụng tài sản cố định, được xác định căn cứ vào tuổi thọ kỹ thuật của tài sản cố định, có tính đến sự lạc hậu, lỗi thời của tài sản cố định do sự tiến bộ của KH&CN, mục đích sử dụng và hiệu quả sử dụng; - TH: Tỷ lệ hao mòn hàng năm của tài sản cố định; · Tính khấu hao tài sản: Có một số cách tính khấu hao tài sản. Tổ chức KH&CN có thể áp dụng phương pháp khấu hao tuyến tính cố định (phương pháp này có ưu điểm là việc tính toán đơn giản, tổng mức khấu hao tài sản cố định được phân bổ đều đặn trong các năm sử dụng và không gây ra sự đột biến trong giá thành sản phẩm hàng năm). Cách tính như sau: MK = NG/T và TK = MK/NG = 1/T , trong đó: - MK: Mức khấu hao cơ bản bình quân hàng năm của tài sản cố định; - NG: Nguyên giá của tài sản cố định (với định nghĩa như trên) ; - T : Thời gian sử dụng của tài sản cố định (với định nghĩa như trên); - TK: Tỷ lệ khấu hao hàng năm của tài sản cố định. Tất nhiên và ngẫu nhiên hay còn gọi là cái tất yếu và cái có thể (tiếng Anh: necessity và contingency) là một cặp phạm trù trong triết học[2][3][4] và là một trong những nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ mối quan hệ biện chứng giữa cái tất nhiên tức phạm trù chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định nó phải xảy ra như vậy với cái ngẫu nhiên một phạm trù chỉ cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong kết cấu vật chất, bên trong sự vật quyết định mà do các nhân tố bên ngoài, do sự kết hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định và có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này, hoặc có thể xuất hiện khác đi[5][6]. Sự thống nhất giữa cái tất yếu và cái có thể đã được Engels đề cập đến trong tác phẩm của ông.[1] Mục lục
Ngữ nghĩaSửa đổiThuật ngữ "ngẫu nhiên" ở đây được dùng theo nghĩa "không do mối liên hệ bản chất, bên trong kết cấu vật chất, sự vật quyết định mà lại do các nhân tố bên ngoài, do sự ngẫu hợp của nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định", còn có thể hiểu là tính chất "tùy cơ". Nội hàm như vậy hơi khác với nghĩa thông dụng của từ "ngẫu nhiên" trong tiếng Việt hiện đại là "xảy ra không thể dự đoán được". Mối quan hệSửa đổiTính khách quanSửa đổiTất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người và đều có vị trí nhất định đối với sự phát triển của sự vật. Trong quá trình phát triển của sự vật không phải chỉ có cái tất nhiên mới đóng vai trò quan trọng mà cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều có vai trò quan trọng. Nếu cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật thì cái ngẫu nhiên có tác dụng làm cho sự phát triển của sự vật diễn ra nhanh hoặc chậm[7]. Cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi xuyên qua vô số cái ngẫu nhiên, còn cái ngẫu nhiên là hình thức của tất nhiên, đồng thời là cái bổ sung của tất nhiên, làm cho cái tất nhiên được bộc lộ một cách sinh động, cụ thể.
Tính phi thuần túySửa đổiTất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại, nhưng chúng không tồn tại biệt lập dưới dạng thuần túy cũng như không có cái ngẫu nhiên thuần túy. Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất hữu cơ này thể hiện ở chỗ: cái tất nhiên bao giờ cũng thể hiện sự tồn tại của mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên. Còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng thời là cái bổ sung cho cái tất nhiên[7]. Ăng-ghen đã khái quát mối quan hệ này bằng kiến giải về sự xuất hiện của các nhân vật lịch sử:
Trong những thư từ trao đổi về triết học, Ăng-ghen cũng ghi nhận rằng:[10] Cái tất yếu như là khuynh hướng chung của sự phát triển và khuynh hướng đó không tồn tại thuần túy, biệt lập, mà được thể hiện dưới hình thức cái ngẫu nhiên. Cái ngẫu nhiên cũng không tồn tại thuần túy mà luôn là hình thức thể hiện của cái tất nhiên. Trong cái ngẫu nhiên ẩn giấu cái tất yếu.
Các Mác đánh giá vai trò của nhân tố ngẫu nhiên trong tiến trình lịch sử, ông cho rằng Lịch sử sẽ mang tính chất thần bí nếu tất cả những cái ngẫu nhiên không có tác dụng gì cả. Những ngẫu nhiên này chính là một bộ phân trong tiến tình chung và sự phát triển diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc vào cái ngẫu nhiên, kể cả những cái ngẫu nhiên rất nhỏ. Thí dụ như: cá tính của những người lúc đầu lãnh đạo phong trào[12] Chuyển hóa lẫn nhauSửa đổiTất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau. Tất nhiên và ngẫu nhiên không nằm yên ở trạng thái cũ mà thay đổi cùng với sự thay đổi của sự vật và trong những điều kiện nhất định tất nhiên có thể chuyển hóa thành ngẫu nhiên và ngược lại. Thí dụ: việc trao đổi vật này lấy vật khác trong xã hội công xã nguyên thủy lúc đầu chỉ là việc ngẫu nhiên. Vì khi đó lực lượng sản xuất thấp kém, mỗi công xã chỉ sản xuất đủ cho riêng mình dùng, chưa có sản phẩm dư thừa. Nhưng về sau, nhờ có sự phân công lao động, kinh nghiệm sản xuất của con người cũng được tích lũy. Con người đã sản xuất được nhiều sản phẩm hơn, dẫn đến có sản phẩm dư thừa. Khi đó sự trao đổi sản phẩm trở nên thường xuyên hơn và biến thành một hiện tượng tất nhiên của xã hội.Sự chuyển hóa giữa tất nhiên và ngẫu nhiên còn thể hiện ở chỗ, khi xem xét trong mối quan hệ này, thông qua mặt này thì sự vật, hiện tượng đó là cái ngẫu nhiên, nhưng khi xem xét trong mối quan hệ khác, thông qua mặt khác thì sự vật, hiện tượng đó lại là cái tất yếu. Như vậy ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ có ý nghĩa tương đối, không nên quá cứng nhắc khi xem xét sự vật, hiện tượng. Mối tương quanSửa đổiPhạm trù tất nhiên có quan hệ với phạm trù "cái chung", "nguyên nhân", tính quy luật, nhưng không đồng nhất với những phạm trù đó. Cái tất yếu là cái chung, nhưng không phải mọi cái chung đều là tất yếu. Nếu cái chung được quyết định bởi bản chất nội tại của sự vật, khi đó cái chung gắn liền với cái tất nhiên, là hình thức thể hiện của cái tất nhiên. Nếu cái chung không được quyết định bởi bản chất nội tại, mà chỉ là những sự lặp lại một số những thuộc tính khác ổn định nào đấy của sự vật, khi đó cái chung là hình thức thể hiện của cái ngẫu nhiên[1]. Và không phải chỉ có cái tất nhiên mới có nguyên nhân, mà cả ngẫu nhiên và tất nhiên đều có nguyên nhân. Đồng thời cũng không nên cho những hiện tượng con người chưa nhận thức được nguyên nhân là hiện tượng ngẫu nhiên, còn những hiện tượng con người đã nhận thức được nguyên nhân và chi phối được nó là cái tất nhiên. Tất nhiên và ngẫu nhiên đều có quy luật, những quy luật quy định sự xuất hiện cái tất nhiên khác với quy luật quy định sự xuất hiện cái ngẫu nhiên[1]. Ý nghĩa phương pháp luậnSửa đổiTriết học Mác-Lenin đã rút ra một số kết luận về phương pháp luận khi giải quyết mối quan hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên[1][5]:
Tham khảoSửa đổi
Xem thêmSửa đổi
Chú thíchSửa đổi
|