Có thể sống xuất hiện đầu tiên trên trái đất thuộc sinh vật nào sau đây

Bệnh than da không có triệu chứng phù nề hoặc triệu chứng toàn thân được điều trị bằng một trong những kháng sinh sau:

  • Ciprofloxacin 500 mg (10 đến 15 mg/kg đối với trẻ em) uống mỗi 12 h

  • Levofloxacin 500 mg uống mỗi 24 h

  • Doxycycline 100 mg (2,5 mg/kg trẻ em) uống mỗi 12 giờ

Amoxicillin 500 mg mỗi 8 giờ vẫn có thể dùng nếu nhiễm trùng cộng đồng.

Bệnh than da mà không có phù nề đáng kể, triệu chứng toàn thân, hoặc nguy cơ phơi nhiễm hô hấp phải điều trị kháng sinh trong 7 đến 10 ngày. Điều trị được kéo dài đến 60 ngày nếu phơi nhiễm hô hấp đồng thời xảy ra.

Trẻ em và phụ nữ mang thai hoặc cho con bú, những người thường không nên dùng ciprofloxacin hoặc doxycycline, tuy nhiên nên được cho một trong những loại thuốc này; Tuy nhiên, nếu cần điều trị kéo dài, họ có thể chuyển sang dùng amoxicillin 500 mg 15 lần/ngày (30 đến 3 mg/kg ở trẻ em) sau 14 đến 21 ngày nếu cơ thể tỏ ra nhạy cảm với penicillin. Điều trị hiếm khi tử vong, nhưng thương tổn sẽ tiến triển đến giai đoạn vết loét.

Hô hấp và các dạng bệnh than khác,bao gồm bệnh than da với phù hoặc triệu chứng toàn thân, cần điều trị bằng 2 hoặc 3 loại kháng sinh. Điều trị bằng kháng sinh nên bao gồm ≥ 1 kháng sinh có hoạt tính diệt khuẩn, và ≥1 nên là chất ức chế tổng hợp protein, có thể ngăn chặn sự sản sinh độc tố (ví dụ, ciprofloxacin và clindamycin).

Thuốc kháng sinh có hoạt tính diệt khuẩn bao gồm:

  • Ciprofloxacin 400 mg (10 đến 15 mg/kg đối với trẻ em) tĩnh mạch mỗi 12 giờ

  • Levofloxacin 750 mg tĩnh mạch mỗi 24 giờ

  • Moxifloxacin 400 mg tĩnh mạch mỗi 24 h

  • Meropenem 2 g tĩnh mạch mỗi 8 h

  • Imipenem 1 g tĩnh mạch mỗi 6 giờ

  • Liều dùng Vancomycin tiêm tĩnh mạch để duy trì nồng độ trong huyết thanh từ 15 đến 20 mcg/mL

  • Penicillin G 4 triệu đơn vị tiêm tĩnh mạch mỗi 4 giờ (đối với các chủng nhạy cảm với penicillin)

  • Ampicillin 3 g tĩnh mạch mỗi 4 giờ (đối với các vết bẩn nhạy penicillin)

Kháng sinh ức chế sự tổng hợp protein bao gồm

  • Linezolid 600 mg tĩnh mạch mỗi 12 giờ

  • Clindamycin 900 mg tĩnh mạch mỗi 8 giờ

  • Doxycycline 200 mg tĩnh mạch ban đầu, sau đó 100 mg mỗi 12 giờ

  • Chloramphenicol 1 g tĩnh mạch mỗi 6 đến 8 h

Linezolid nên được sử dụng cẩn thận ở những bệnh nhân bị ức chế tủy xương; nó không thể được sử dụng trong thời gian dài vì các phản ứng phụ thần kinh của nó.

Rifampin, mặc dù không phải chất ức chế tổng hợp protein, có thể được sử dụng trong khả năng này vì nó có tác dụng hiệp đồng với kháng sinh chính.

Nếu nghi ngờ bị viêm màng não, meropenem nên được sử dụng với các kháng sinh khác vì nó có thâm nhập hệ thần kinh trung ương tốt. Nếu không có meropenem, imipenem/cilastatin là một phương pháp thay thế tương đương. Phác đồ phối hợp tĩnh mạch ban đầu nên được dùng trong ≥ 2 tuần hoặc cho đến khi bệnh nhân ổn định về mặt lâm sàng, tùy theo thời điểm nào dài hơn. Nếu bệnh nhân đã tiếp xúc với bào tử, nên tiếp tục điều trị trong 60 ngày để tránh tái phát do bất kỳ bào tử không xác định nào có thể đã sống sót trong phổi sau khi tiếp xúc ban đầu.

Một khi hoàn thành liệu trình kháng sinh tĩnh mạch phối hợp, nên điều trị bằng thuốc kháng sinh uống.

Khiếm khuyết trong đáp ứng miễn dịch có thể liên quan

TT - Theo phát hiện của một nhóm nghiên cứu thuộc Trường đại học Pennsylvania (Mỹ), những loài thực vật đầu tiên của Trái đất gồm địa y (ảnh - đại diện cho nấm) đã có mặt cách đây 1,3 tỉ năm và rêu (đại diện cho thực vật) đã xuất hiện từ ít nhất khoảng 700 triệu năm trước, cổ xưa hơn nhiều so với con số 480 triệu năm do các nghiên cứu trên hóa thạch trước đây đã đưa ra.

Các chuyên gia này cho biết: vào thời điểm khoảng 700 triệu năm trước, hành tinh chúng ta hãy còn bị chôn vùi trong băng hà, với biệt danh Snowball Earth. Sự xuất hiện của thực vật đã làm tăng lượng oxy và giảm CO2 trong bầu khí quyển.

Mức CO2 giảm xuống khiến hiệu ứng nhà kính suy yếu dần, băng hà càng trở nên dai dẳng trên Trái đất, kéo dài cho đến 580 triệu năm trước đây. Cho đến cách đây khoảng 530 triệu năm, thời kỳ băng hà chấm dứt, những loài động vật đầu tiên xuất hiện, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử sự sống trên Trái đất, còn gọi là vụ nổ Cambri.

Chính các loài thực vật đã mở đường cho sự tiến hóa này. “Thực vật phong phú đã làm lượng oxy trong khí quyển tăng cao, đủ để động vật phát triển xương, có thân hình to lớn hơn và phân hóa đa dạng” - TS Blair Hedges, trưởng nhóm nghiên cứu, nhận định.

NGUYỄN SINH (Reuters)

Bài viết được tham vấn chuyên môn cùng Bác sĩ cao cấp, Tiến sĩ Vũ Văn Tâm - Bác sĩ Nội truyền nhiễm - Khoa khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Hạ Long.

Virus là ký sinh trùng siêu nhỏ, thường nhỏ hơn nhiều so với vi khuẩn. Chúng thiếu khả năng phát triển và sinh sản bên ngoài cơ thể vật chủ. Phần lớn virus là nguyên nhân gây bệnh. Thế giới đã trải qua sự bùng phát dịch Ebola năm 2014 ở Tây Phi, đại dịch cúm lợn năm 2009. Và hiện nay là đại dịch Covid-19 đang gây nguy hiểm cho tất cả mọi người.

Virus là một loại ký sinh trùng nhỏ không thể tự sinh sản. Tuy nhiên, một khi virus lây nhiễm vào một tế bào nhạy cảm, nó có thể điều khiển bộ máy tế bào tạo ra nhiều virus hơn. Hầu hết các virus có RNA và DNA là vật liệu di truyền của chúng. Acid nucleic có thể là chuỗi đơn hoặc chuỗi kép. Toàn bộ hạt virus truyền nhiễm được gọi là virion, bao gồm acid nucleic và vỏ ngoài của protein.

Virus không chứa ribosome vì thế chúng không thể tạo ra protein. Điều này làm cho nó hoàn toàn phụ thuộc vào vật chủ ký sinh. Chúng là loài sinh vật duy nhất không thể sinh sản mà không có tế bào vật chủ.

Sau khi liên lạc với tế bào vật chủ thì nó sẽ chèn vật liệu di truyền vào vật chủ và chiếm lấy chức năng của vật chủ đó. Sau khi lây nhiễm vào tế bào, virus tiếp tục sinh sản nhưng nó tạo ra nhiều protein và vật liệu di truyền hơn thay vì các sản phẩm tế bào thông thường. Các virus đơn giản nhất chỉ chứa đủ RNA hoặc DNA để có thể mã hoá bốn protein. Còn với các virus phức tạp, có thể mã hoá khoảng từ 100 - 200 protein.

Có thể sống xuất hiện đầu tiên trên trái đất thuộc sinh vật nào sau đây

Virus có nhiều chủng loại khác nhau

Virus có hình dạng và kích thước khác nhau và chúng có thể được phân loại như sau:

  • Xoắn ốc: Virus khảm thuốc lá có hình dạng xoắn ốc.
  • Hình cầu: Hầu hết các loại virus động vật đều có hình dạng này.
  • Hình phong bì: Một số virus bao phủ bản thân với một phần được sửa chữa của màng tế bào, tạo ra một lớp vỏ lipid để bảo vệ. Chúng bao gồm virus cúmvirus HIV.

Ngoài ra, các hình dạng này có thể được kết hợp với nhau tạo ra các hình dạng của virus không theo tiêu chuẩn nào cả.

Virus được tìm thấy ở bất cứ nơi nào có sự sống và có lẽ đã tồn tại kể từ khi các tế bào sống phát triển đầu tiên. Nguồn gốc của virus không rõ ràng vì chúng không tạo thành hóa thạch. Cho nên, các nhà khoa học đã sử dụng kỹ thuật phân tử để so sánh DNA hoặc RNA của virus và đây cũng là phương tiện hữu ích để điều tra cách chúng phát sinh.

Ngoài ra, vật liệu di truyền của virus đôi khi có thể tích hợp vào tế bào sinh vật chủ, nhờ đó chúng có thể được truyền theo chiều dọc, chẳng hạn như truyền cho con cái của vật chủ trong nhiều thế hệ. Những điều này cung cấp một nguồn thông tin vô cùng quý giá cho các nhà cổ sinh vật học đã truy tìm lại các virus cổ xưa và đã tồn tại từ hàng triệu năm trước.

Có ba giả thuyết chính nhằm giải thích sự hình thành của virus:

Virus có thể đã từng là những tế bào nhỏ ký sinh trên các tế bào lớn hơn. Theo thời gian, các gen không được yêu cầu bởi ký sinh trùng của chúng sẽ bị mất đi. Vi khuẩn rất nhỏ như rickettsia và chlamydia là những tế bào sống, giống như virus và chỉ sinh sản bên trong tế bào vật chủ. Giả thuyết nào cho thấy sự phụ thuộc của ký sinh trùng có khả năng gây ra sự mất gen cho phép sống sót ở bên ngoài một tế bào. Đây cũng có thể được gọi là giả thuyết thoái hóa hoặc giả thuyết giảm.

  • Giả thuyết nguồn gốc tế bào:

Một số virus có thể đã tiến hóa từ DNA hoặc RNA và thoát ra khỏi gen của một sinh vật lớn hơn. DNA thoát ra có thể đến từ các plasmids ( là các mảnh DNA trần có thể di chuyển giữa các tế bào), hoặc transposons (các phân tử DNA sao chép và di chuyển đến các vị trí khác nhau trong gen của tế bào). Từng được gọi là “gen nhảy” transposon là ví dụ về các yếu tố di truyền và có thể là nguồn gốc của một số virus. Chúng được phát hiện trên ngô bởi Barbara McClintock vào năm 1950.

Có thể sống xuất hiện đầu tiên trên trái đất thuộc sinh vật nào sau đây

RNA của virus

  • Giả thuyết đồng tiến hóa:

Đây được gọi là giả thuyết đầu tiên về virus, và cho rằng virus có thể đã tiến hóa từ các phân tử phức tạp của protein và acid nucleic cùng lúc với tế bào xuất hiện lần đầu tiên trên Trái Đất. Và nó sẽ phụ thuộc vào sự sống của tế bào trong hàng tỷ năm.

Viroids là các phân tử RNA không được phân loại là virus vì chúng thiếu lớp vỏ protein. Chúng có những đặc điểm chung cho một số loại virus và thường được gọi là tác nhân phụ. Viroids là mầm bệnh quan trọng của thực vật. Chúng không mã hóa protein nhưng tương tác với tế bào vật chủ và sử dụng bộ máy của vật chủ để sao chép.

Virus viêm gan delta của người có bộ gen RNA tương tự viroid nhưng có vỏ protein và có nguồn gốc từ virus viêm gan B đồng thời cũng không thể tự sản xuất. Do đó, nó là một virus bị lỗi. Mặc dù bộ gen của virus viêm gan delta có thể được sao chép độc lập một lần trong tế bào vật chủ, nhưng nó vẫn cần có sự trợ giúp của virus viêm gan B để cung cấp một lớp vỏ protein để nó có thể truyền đến các tế bào mới. Vì vậy, những loại virus này phụ thuộc vào sự hiện diện của các loại virus khác trong tế bào chủ, được gọi là vệ tinh và có thể đại diện cho các trung gian tiến hóa của viroid và virus.

Trước đây, có những vấn đề với tất cả những giả thuyết này: giả thuyết hồi quy không giải thích được tại sao ngay cả những ký sinh trùng tế bào nhỏ nhất cũng không giống với virus. Giả thuyết nguồn gốc tế bào cũng không giải thích được viên nang phức tạp và cấu trúc khác trên các hạt virus. Giả thuyết đầu tiên về virus đã chống lại định nghĩa về virus ở chỗ chúng yêu cầu tế bào vật chủ. Virus hiện được công nhận là cổ xưa và có nguồn gốc từ trước sự phân kỳ của sự sống.

Bằng chứng về thế giới tổ tiên của tế bào RNA và phân tích máy tính về trình tự DNA của virus và vật chủ đang giúp hiểu rõ hơn về mối quan hệ tiến hoá giữa các loại virus khác nhau, và có thể xác định tổ tiên của virus hiện đại. Dường như tất cả các loại virus hiện được biết đến đều có chung một tổ tiên và virus có thể đã phát sinh nhiều lần trong quá khứ bởi một hoặc nhiều cơ chế.

Có thể sống xuất hiện đầu tiên trên trái đất thuộc sinh vật nào sau đây

Virus viêm gan B

Đến cuối thế kỷ 19, quan niệm rằng các vi sinh vật đặc biệt là vi khuẩn có thể gây bệnh đã được thiết lập tốt. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đang tìm kiếm một căn bệnh đáng lo ngại trong thuốc lá - có phần khó hiểu về nguyên nhân của nó.

Trong một bài viết nghiên cứu năm 1886 có tự đề là “Liên quan đến bệnh khảm của thuốc lá” của nhà hoá học người Đức Adolf Mayer, đã công bố phát hiện rằng khi ông nghiền nát những chiếc lá bị nhiễm bệnh và tiêm nước độc hại vào tĩnh mạch của chiếc lá khoẻ mạnh, điều đó sẽ dẫn gây ra các đốm và đổi màu trên lá.

Mayer phỏng đoán chính xác rằng điều gây ra bệnh khảm thuốc lá bắt đầu từ trong nước ép lá. Tuy nhiên, kết quả cụ thể hơn đã không đúng với phỏng đoán của ông. Mayer cảm thấy chắc chắn rằng điều mà gây ra căn bệnh này đều có nguồn gốc từ vi khuẩn, nhưng ông không thể phân lập được tác nhân gây bệnh hoặc xác định nó dưới kính hiển vi.

Năm 1898, khi dự hiện diện của virus được thừa nhận, nhà khoa học người Hà Lan Martinus Beijerinck đã cho rằng nguyên nhân gây bệnh khảm thuốc lá không phải là vi khuẩn mà là một loại virus sống trong chất lỏng. Và các thí nghiệm sau đó của ông cũng đã chỉ ra sự tồn tại của virus.

Đến năm 1931 một kính hiển vi điện tử được phát triển bởi nhà khoa học người Đức Ernst Ruska và Max Knoll. Những hình ảnh đầu tiên về virus khảm thuốc lá đã được chủ bởi Ruska vào năm 1939. Do đó, việc phát hiện virus đã được xuất hiện.

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số 1900 232 389 (phím 0 để gọi Vinmec) hoặc đăng ký lịch khám tại viện TẠI ĐÂY. Nếu có nhu cầu tư vấn sức khỏe từ xa cùng bác sĩ Vinmec, quý khách đặt lịch tư vấn TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn

Nguồn tham khảo: medicalnewstoday.com; livescience.com

Sự khác nhau giữa vi khuẩn và virus

XEM THÊM: