Cách thức nào không phải là cách thực cơ bản để đánh giá rủi ro tiềm tàng của đơn vị được kiểm toán

Rủi ro kiểm toán

Rủi ro kiểm toán là khả năng mà kiểm toán viên đưa ra ý kiến không xác đáng về đốitượng được kiểm toán.

Chẳng hạn, kiểm toán viên đưa ra ý kiến rằng báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán đã trình bày trung thực và hợp lý xét trên các khía cạnh trọng yếu, tuy nhiên trênthực tế các báo cáo đã được kiểm toán này vẫn tồn tại các sai phạm trọng yếu mà kiểm toán viên không phát hiện ra trong quá trình kiểm toán. Loại rủi ro này luôn có thể tồn tại, ngay cả khi cuộc kiểm toán được lập kế hoạch chu đáo và thực hiện một cách thận trọng.

Rủi ro này sẽ tăng lên nếu việc lập kế hoạch kiểm toán kém và thực hiện thiếu thận trọng.

Trong kiểm toán quốc tế, rủi ro được xét trong quan hệ với kế hoạch kiểm toán, rủi ro kiểm toán được hiểu là khả năng sai sót và việc đánh giá rủi ro tiến hành qua ước tính
theo tỷ lệ từ 0% đến 100%. Trên thực tế, không có một chuẩn mực chính thức nào về mức rủi ro kiểm toán có thể chấp nhận, loại trừ rằng rủi ro kiểm toán phải ở mức thấp cho phép.

Tuy nhiên ngay cả1% rủi ro cũng vẫn được xem là mức tồi.

Ví dụ Với một công ty kiểm toán lớn với 2.000 cuộc kiểm toán trong 1 năm, thì 1% rủi ro là 20 cuộc kiểm toán tồi xảy ra trong năm đó. Góc độ lý thuyết thì rủi ro kiểm toán nên nhỏhơn 1%.

Trong thực tiễn, rủi ro kiểm toán thường xảy ra do giới hạn về quản lý, về kiểm toánmà trực tiếp là chi phí kiểm toán và ngay cả khi chúng có khả năng đủ.. Trong mối quan hệnày, rủi ro kiểm toán và chi phí kiểm toán có quan hệ nghịch với nhau và được thể hiện qua sơ đồ sau:
Do đối tượng kiểm toán là những thông tin được kiểm toán qua nhiều giai đoạn bằng các bộ máy kiểm toán khác nhau nên rủi ro kiểm toán cũng được xác định tương ứng với đối tượng kiểm toán từng loại: rủi ro tiềm tăng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện.

Rủi ro tiềm tàng - IR

Đó chính là khả năng tồn tại các sai phạm trọng yếu trong bản thân các đối tượng kiểm toán [chưa tính đến sự tác động của bất cứ hoạt động kiểm toán nào kể cả kiểm soát nội bộ].

Mức độ rủi ro tiềm tàng phụ thuộc vào đặc điểm tình hình KD của khách thể kiểm toán, loại hình kinh doanh và cả năng lực nhân viên của khách thể kiểm toán.

Kiểm toán viên không tạo ra và cũng không kiểm soát rủi ro tiềm tàng. Họ chỉ có thể đánh giá chúng.
Để đánh giá rủi ro tiềm tàng KTV có thể dựa vào nhiều nguồn thông tin khác nhau.
Chẳng hạn, KTV có thể dựa vào kết quả của cuộc kiểm toán năm trước, ví dụ nếu năm

trước kết quả kiểm toán chỉ ra rằng không phát hiện sai phạm trọng yếu nào thì KTV nên đánh giá khả năng tiềm ẩn rủi ro tiềm tàng sẽ lớn và phải chú ý nhiều.

Rủi ro kiểm soát – CR

Đó là khả năng hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị kiểm toán không phát hiện, ngăn ngừa và sửa chữa kịp thời các sai phạm trọng yếu. KTV không tạo ra rủi ro kiểm soát và cũng không kiểm soát chúng. Họ chỉ có thể đánh giá hệ thống kiểm soát của đơn vị được kiểm toán và từ đó đưa ra mức rủi ro kiểm soát dự kiến.

Rủi ro phát hiện – DR

Đó là khả năng mà các thủ tục kiểm toán không phát hiện được các sai phạm trọng yếu. Ngược lại với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, KTV phải có trách nhiệm thực hiện cá thủ tục thu thập các bằng chứng kiểm toán nhằm quản lý và kiểm soát đối với rủi ro phát hiện.

Mô hình rủi ro kiểm toán

AR = IR x CR x DR [1]

Với mô hình này, KTV có thể sử dụng nó để điều chỉnh rủi ro phát hiện dựa trên các loại rủi ro khác đã được đánh giá nhằm đạt được rủi ro kiểm toán ở mức thấp như mong muốn.

Chẳng hạn, KTV muốn thực hiện một cuộc kiểm toán cụ thể và muốn rủi ro kiểm toán đạt ở mức tương đối thấp.

Tất cả các rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều được đánh giá dựa trên kinh nghiệm và nhận định nghề nghiệp và có chứng minh cụ thể. Giả sử, KTV cho rằng rủi ro tiềm tàng đối với đối tượng kiểm toán là rất lớn và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vịđược kiểm toán không được hiệu lực lắm.

Nếu KTV muốn đạt được mức rủi ro kiểm toán ở mức thấp như mong muốn [AR = 0,05], thì các thủ tục kiểm toán cần phải được thiết kế để sao cho rủi ro phát hiện [DR] không vượt quá mức 0,08.
Theo mô hình rủi ro, với những dữ kiện vừa nêu ra ta có kết quả như sau:

AR = IR x CR x DR

0,05 = 0,90 x 0,70 x DR suy ra DR = 0,08.

Cần phải chú ý rằng rủi ro phát hiện phụ thuộc vào các loại rủi ro khác. Từ[1] ta suy ra:

DR = AR / [IR x CR] [2]

Mặc dù đây là mô hình rủi ro có tính chất giản đơn nhưng nó có ý nghĩa rất lớn cho KTV trong việc lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán sao cho hợp ý và đủ để bảo đảm duy tri rủi ro phát hiện ở mức thấp cho phép. Tuy nhiên, khi sử dụng mô hình rủi ro này, KTV cần chú ý một số điểm sau:

- KTV không thể giả sử rằng rủi ro tiềm tàng là bằng 0 để không cần đến các bước thu thập bằng chứng kiểm toán:

AR = IR [= 0] x CR x DR = 0

- KTV không thể đặt niềm tin tuyệt đối vào hệ thống kiểm soát nội bộ[CR = 0] để không cần đến các bước thu thập bằng chứng kiểm toán:

AR = IR x CR [= 0 ] x DR = 0

- KTV không thể được xem là đã thận trọng nghề nghiệp thích đáng nếu như rủi ro của
việc không phát hiện các sai phạm trọng yếu trong đối tượng kiểm toán ở mức quá cao, ví dụ:

AR = IR [= 0,80] x CR [= 0,80] x DR [= 0,50] = 0,32

Rủi ro kiểm toán và rủi ro phát hiện luôn luôn đi đôi với tính trọng yếu. Sẽ không hữu hiệu nếu khi nghĩ về rủi ro kiểm toán và rủi ro phát hiện mà không nghĩ về tính trọng yếu.
Ví dụ:

1. Rủi ro kiểm toán là rủi ro mà các thủ tục kiểm toán không phát hiện được các sai phạm trọng yếu. Đúng.

2. KTV có trách nhiệm phát hiện tất cả các gian lận và sai sót. Sai

3. KTV chỉ là phát hiện những sai phạm trọng yếu.

4. Nhất định mọi nghiệp vụ trong công ty kiểm toán độc lập cần phải độc lập với khách
hàng kiểm toán của mình. Sai vì nhân viên Kiểm toán không nhất định phải độc lập với khách hàng.

5. Trọng yếu là khái niệm đúng để chỉ tầm trang trọng các thông tin, các khoản mục trên BCTC. Đúng.

6. Hành vi bỏ sót một số nghiệp vụ kiểm toán luôn là sai phạm trọng yếu. Sai.
Quantri.vn - Biên tập và hệ thống hóa
Sưu tầm: Hương Giang - BKS
Nguồn: quantri.vn

ĐÁNH GIÁ RỦI RO VÀ KIỂM SOÁT NỘI BỘ

[QĐ 143/2001/QĐ-BTC ngày 21/12/ 2001 của Bộ trưởng Bộ Tài chính]

Qui Định Chung


01. Mục đích của chuẩn mực này là qui định các nguyên tắc, thủ tục cơ bản và hướng dẫn thể thức áp dụng các nguyên tắc, thủ tục cơ bản liên quan đến việc tìm hiểu hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ cũng như việc đánh giá rủi ro kiểm toán và các thành phần của nó, bao gồm : Rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện trong quá trình kiểm toán báo cáo tài chính.


02.Kiểm toán viên phải có đủ hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ củakhách hàng để lập kế hoạch kiểm toán tổng thể và chương trình kiểm toán thích hợp, có hiệu quả.

Kiểm toán viên phải sử dụng khả năng xét đoán chuyên môn của mình để đánh giá rủi ro kiểm toán và xác định các thủ tục kiểm toán nhằm giảm các rủi ro kiểm toán xuống thấp tới mức có thể chấp nhận được.


03. Chuẩn mực này áp dụng cho kiểm toán báo cáo tài chính và được vận dụng cho kiểm toán thông tin tài chính khác và các dịch vụ liên quan của công ty kiểm toán.


Kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải tuân thủ những qui định của chuẩn mực này trong quá trình thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính và cung cấp dịch vụ liên quan.


Đơn vị được kiểm toán [khách hàng] và các bên sử dụng kết quả kiểm toán phải có những hiểu biết cần thiết về những qui định trong chuẩn mực này để phối hợp công việc với công ty kiểm toán và kiểm toán viên cũng như xử lý quan hệ liên quan đến các thông tin đã được kiểm toán.


Các thuật ngữ trong chuẩn mực này được hiểu như sau:


04.Rủi ro tiềm tàng:Là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ.


05.Rủi ro kiểm soát:Là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời.


06.Rủi ro phát hiện:Là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán không phát hiện được.


07.Rủi ro kiểm toán:Là rủi ro do kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán bao gồm ba bộ phận: rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện.


08.Đánh giá rủi ro kiểm toán:Là việc kiểm toán viên và công ty kiểm toán xác định mức độ rủi ro kiểm toán có thể xảy ra là cao hay thấp, bao gồm đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện. Rủi ro kiểm toán được xác định trước khi lập kế hoạch và trước khi thực hiện kiểm toán.


09.Trọng yếu:Là thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông tin hoặc một số liệu trong báo cáo tài chính.


Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hay thông tin đó thiếu chính xác thì sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính. Mức độ trọng yếu tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của thông tin hay của sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Tính trọng yếu của thông tin phải được xem xét cả trên tiêu chuẩn định lượng và định tính.


10.Hệ thống kiểm soát nội bộ:Là các qui định và các thủ tục kiểm soát do đơn vị được kiểm toán xây dựng và áp dụng nhằm bảo đảm cho đơn vị tuân thủ pháp luật và các qui định, để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện gian lận, sai sót; để lập báo cáo tài chính trung thực và hợp lý; nhằm bảo vệ, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản của đơn vị. Hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán và các thủ tục kiểm soát.


11.Hệ thống kế toán:Là các qui định về kế toán và các thủ tục kế toán mà đơn vị được kiểm toán áp dụng để thực hiện ghi chép kế toán và lập báo cáo tài chính.


12.Môi trường kiểm soát:Là những nhận thức, quan điểm, sự quan tâm và hoạt động của thành viên Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc đối với hệ thống kiểm soát nội bộ và vai trò của hệ thống kiểm soát nội bộ trong đơn vị.


Môi trường kiểm soát có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của các thủ tục kiểm soát. Môi trường kiểm soát mạnh sẽ hỗ trợ đáng kể cho các thủ tục kiểm soát cụ thể. Tuy nhiên môi trường kiểm soát mạnh không đồng nghĩa với hệ thống kiểm soát nội bộ mạnh. Môi trường kiểm soát mạnh tự nó chưa đủ đảm bảo tính hiệu quả của toàn bộ hệ thống kiểm soát nội bộ.


13.Thủ tục kiểm soát:Là các quy chế và thủ tục do Ban lãnh đạo đơn vị thiết lập và chỉ đạo thực hiện trong đơn vị nhằm đạt được mục tiêu quản lý cụ thể.


NỘI DUNG CHUẨN MỰC


14. Khi xác định phương pháp tiếp cận kiểm toán, kiểm toán viên phải quan tâm đến những đánh giá ban đầu về rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát để xác định mức độ rủi ro phát hiện có thể chấp nhận được cho cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính và xác định nội dung, lịch trình, phạm vi của các thủ tục cơ bản cho cơ sở dẫn liệu đó.


Rủi ro tiềm tàng


15. Khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải đánh giá rủi ro tiềm tàng cho toàn bộ báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán. Khi lập chương trình kiểm toán, kiểm toán viên phải xác định cụ thể mức độ rủi ro tiềm tàng cho các số dư hoặc loại nghiệp vụ quan trọng đến từng cơ sở dẫn liệu. Trường hợp không thể xác định cụ thể được thì kiểm toán viên phải giả định rằng rủi ro tiềm tàng là cao cho cơ sở dẫn liệu đó. Căn cứ vào mức độ đánh giá rủi ro tiềm tàng để dự kiến các công việc, thủ tục kiểm toán sẽ được thực hiện cho các nghiệp vụ, các khoản mục trọng yếu trên báo cáo tài chính, hoặc các nghiệp vụ, các khoản mục mà kiểm toán viên cho là có rủi ro tiềm tàng cao [Xem Phụ lục số 01].


16. Kiểm toán viên phải dựa vào việc xét đoán chuyên môn của mình để đánh giá rủi ro tiềm tàng trên những nhân tố chủ yếu sau:


+ Trên phương diện báo cáo tài chính:


- Sự liêm khiết, kinh nghiệm và hiểu biết của Ban Giám đốc cũng như sự thay đổi thành phần Ban quản lý xảy ra trong niên độ kế toán;
- Trình độ và kinh nghiệm chuyên môn của kế toán trưởng, của các nhân viên kế toán chủ yếu, của kiểm toán viên nội bộ và sự thay đổi [nếu có] của họ.
- Những áp lực bất thường đối với Ban Giám đốc, đối với kế toán trưởng, nhất là những hoàn cảnh thúc đẩy Ban Giám đốc, kế toán trưởng phải trình bày báo cáo tài chính không trung thực;
- Đặc điểm hoạt động của đơn vị, như: Quy trình công nghệ, cơ cấu vốn, các đơn vị phụ thuộc, phạm vi địa lý, hoạt động theo mùa vụ;
- Các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động của đơn vị, như: các biến động về kinh tế, về cạnh tranh, sự thay đổi về thị trường mua, thị trường bán và sự thay đổi của hệ thống kế toán đối với lĩnh vực hoạt động của đơn vị.


+ Trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ:


- Báo cáo tài chính có thể chứa đựng những sai sót, như: Báo cáo tài chính có những điều chỉnh liên quan đến niên độ trước; báo cáo tài chính có nhiều ước tính kế toán, hoặc trong năm tài chính có sự thay đổi chính sách kế toán;
- Việc xác định số dư và số phát sinh của các tài khoản và nghiệp vụ kinh tế, như: Số dư các tài khoản dự phòng, nghiệp vụ kinh tế đối với chi phí phát sinh sau ghi nhận ban đầu TSCĐ tính vào chi phí hay tính tăng nguyên giá TSCĐ,...;
- Mức độ dễ bị mất mát, biển thủ tài sản, như: phát sinh nhiều nghiệp vụ thu, chi tiền mặt, tạm ứng tiền với số lượng lớn, thời gian thanh toán dài,...;
- Mức độ phức tạp của các nghiệp vụ hay sự kiện quan trọng đòi hỏi phải có ý kiến của chuyên gia, như: xảy ra kiện tụng hoặc trộm cắp,...;
- Việc ghi chép các nghiệp vụ bất thường và phức tạp, đặc biệt là gần thời điểm kết thúc niên độ;
- Các nghiệp vụ kinh tế, tài chính bất thường khác.


Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ


17. Kiểm soát nội bộ trong hệ thống kế toán nhằm đảm bảo:


- Nghiệp vụ kinh tế, tài chính được thực hiện sau khi đã có sự chấp thuận của những người có thẩm quyền;
- Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được ghi chép kịp thời, đầy đủ và chính xác vào các tài khoản trong kỳ kế toán phù hợp, làm cơ sở lập báo cáo tài chính phù hợp với chế độ kế toán theo qui định hiện hành;
- Chỉ được tiếp cận trực tiếp với tài sản hay tài liệu kế toán khi có sự đồng ý của Ban Giám đốc;
- Các tài sản ghi trong sổ kế toán được đối chiếu với tài sản theo kết quả kiểm kê thực tế ở những thời điểm nhất định và có biện pháp thích hợp để xử lý nếu có chênh lệch.


Hạn chế tiềm tàng của Hệ thống kiểm soát nội bộ


18. Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không thể đảm bảo hoàn toàn đạt được mục tiêu quản lý là do những hạn chế tiềm tàng của hệ thống đó, như:


- Yêu cầu thông thường là chi phí cho hệ thống kiểm soát nội bộ không được vượt quá những lợi ích mà hệ thống đó mang lại;
- Phần lớn các thủ tục kiểm soát nội bộ thường được thiết lập cho các nghiệp vụ thường xuyên, lặp đi, lặp lại, hơn là các nghiệp vụ không thường xuyên;
- Sai sót bởi con người thiếu chú ý, đãng trí khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, hoặc do không hiểu rõ yêu cầu công việc;
- Khả năng hệ thống kiểm soát nội bộ không phát hiện được sự thông đồng của thành viên trong Ban quản lý hoặc nhân viên với những người khác trong hay ngoài đơn vị;
- Khả năng người chịu trách nhiệm thực hiện thủ tục kiểm soát nội bộ lạm dụng đặc quyền của mình;
- Do thay đổi cơ chế và yêu cầu quản lý làm cho các thủ tục kiểm soát bị lạc hậu hoặc bị vi phạm.


Hiểu biết hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán


19. Trong phạm vi kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán viên chủ yếu quan tâm đến các chính sách, thủ tục của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ có liên quan đến cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính. Việc tìm hiểu hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán và việc đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát sẽ giúp cho kiểm toán viên:


- Xác định được phạm vi kiểm toán cần thiết đối với những sai sót trọng yếu có thể tồn tại trong báo cáo tài chính;
- Xem xét những nhân tố có khả năng gây ra sai sót trọng yếu;
- Xây dựng các thủ tục kiểm toán thích hợp.


20. Khi tìm hiểu hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ để lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên sẽ hiểu biết được việc thiết kế và thực hiện của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng. Điều đó giúp cho kiểm toán viên xác định được khối lượng các nghiệp vụ kinh tế tài chính cần được kiểm tra cũng như việc thiết lập các thủ tục kiểm tra cần thiết.


21. Nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục tìm hiểu hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ có thể thay đổi tuỳ theo các điều kiện cụ thể sau :


- Quy mô, tính chất phức tạp của đơn vị và của hệ thống tin học của đơn vị [Ví dụ: áp dụng chương trình vi tính từng phần hoặc toàn bộ; sử dụng từng máy đơn lẻ hoặc nối mạng, ...];
- Mức độ trọng yếu theo xác định của kiểm toán viên và công ty kiểm toán ;
- Các loại kiểm soát nội bộ [Ví dụ: Kiểm soát hàng mua, hàng bán; kiểm soát tiền mặt, ...];
- Nội dung các qui định của đơn vị đối với những thủ tục kiểm soát cụ thể [Ví dụ: Quy trình mua hàng, quy trình bán hàng, quy trình nhập kho, quy trình xuất kho, ...];
- Mức độ nhiều hay ít của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, việc lưu giữ các tài liệu kiểm soát nội bộ của khách hàng;
- Đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro tiềm tàng là cao hay thấp.


22. Để hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên phải dựa vào:


- Kinh nghiệm và hiểu biết của mình trước đây về lĩnh vực hoạt động và về đơn vị;
- Nội dung và kết quả trao đổi với Ban Giám đốc, với các phòng, ban và đối chiếu với các tài liệu liên quan;
- Việc kiểm tra, xem xét các tài liệu, các thông tin do hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ cung cấp;
- Việc quan sát các hoạt động và nghiệp vụ của đơn vị, như: tổ chức hệ thống thông tin, quản lý nhân sự, hệ thống kiểm soát nội bộ, quá trình xử lý các nghiệp vụ kinh tế, giao dịch giữa các bộ phận trong đơn vị.


23. Hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán và các thủ tục kiểm soát.


Môi trường kiểm soát


24. Kiểm toán viên phải hiểu biết về môi trường kiểm soát của đơn vị để đánh giá nhận thức, quan điểm, sự quan tâm và hoạt động của thành viên Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc đối với hệ thống kiểm soát nội bộ.


Các nhân tố chủ yếu để đánh giá môi trường kiểm soát:


- Chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc và các phòng ban chức năng của đơn vị;
- Tư duy quản lý, phong cách điều hành của thành viên Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc;
- Cơ cấu tổ chức và quyền hạn, trách nhiệm của các bộ phận trong cơ cấu đó;
- Hệ thống kiểm soát của Ban quản lý bao gồm tất cả các bộ phận quản lý, kiểm soát, chức năng của kiểm toán nội bộ, chính sách và thủ tục liên quan đến nhân sự và sự phân định trách nhiệm;
- Ảnh hưởng từ bên ngoài đơn vị như chính sách của Nhà nước, chỉ đạo của cấp trên hoặc cơ quan quản lý chuyên môn;
- ...


Hệ thống kế toán


25. Kiểm toán viên phải hiểu biết về hệ thống kế toán và việc thực hiện công việc kế toán củađơn vị để xác định được:


-Các loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu;
-Nguồn gốc các loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu;
-Tổ chức bộ máy kế toán;
-Tổ chức công việc kế toán, gồm: Hệ thống chứng từ kế toán, tài khoản kế toán, sổ kế toán và hệ thống báo cáo tài chính;
-Quy trình kế toán các nghiệp vụ kinh tế chủ yếu và các sự kiện từ khi phát sinh đến khi lập và trình bày báo cáo tài chính.


Thủ tục kiểm soát


26.Kiểm toán viên phải hiểu biết các thủ tục kiểm soát của đơn vị để xây dựng kế hoạch kiểmtoán tổng thể và chương trình kiểm toán.Kiểm toán viên dựa vào hiểu biết của mình về môi trường kiểm soát để xác định những thủ tục kiểm soát đã được đơn vị thiết lập và những thủ tục còn thiếu, cần thiết phải bổ sung thêm. [Ví dụ: Khi tìm hiểu về quy trình kế toán tiền gửi ngân hàng, kiểm toán viên sẽ kết hợp xem xét thủ tục đối chiếu với ngân hàng có được thiết lập và thực hiện không?].


Các thủ tục kiểm soát chủ yếu bao gồm:


- Lập, kiểm tra, so sánh và phê duyệt các số liệu, tài liệu liên quan đến đơn vị;
- Kiểm tra tính chính xác của các số liệu tính toán;
- Kiểm tra chương trình ứng dụng và môi trường tin học;
- Kiểm tra số liệu giữa sổ kế toán tổng hợp và sổ kế toán chi tiết;
- Kiểm tra và phê duyệt các chứng từ kế toán, tài liệu kế toán;
- Đối chiếu số liệu nội bộ với bên ngoài;
- So sánh, đối chiếu kết quả kiểm kê thực tế với số liệu trên sổ kế toán;
- Giới hạn việc tiếp cận trực tiếp với các tài sản và tài liệu kế toán;
- Phân tích, so sánh giữa số liệu thực tế với dự toán, kế hoạch.


Khi xem xét các thủ tục kiểm soát, phải xem các thủ tục này có được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc cơ bản, như: chế độ thủ trưởng, nguyên tắc phân công, phân nhiệm, nguyên tắc tách biệt về trách nhiệm, nguyên tắc phân cấp, uỷ quyền,...


Rủi ro kiểm soát


Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát


27. Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát là việc đánh giá hiệu quả hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị trong việc ngăn ngừa hoặc phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm soát thường không hoàn toàn được loại trừ do sự hạn chế tiềm tàng của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ.


28. Dựa trên sự hiểu biết hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát đối với cơ sở dẫn liệu cho từng số dư tài khoản hoặc các loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu.


29. Kiểm toán viên thường đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức độ cao đối với cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính trong trường hợp:
- Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không đầy đủ;
- Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không hiệu quả;
- Kiểm toán viên không được cung cấp đầy đủ cơ sở để đánh giá sự đầy đủ và hiệu quả của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng.
[Xem Phụ lục số 01]


30. Kiểm toán viên thường đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức độ không cao đối với cơ sở dẫn liệucủa báo cáo tài chính trong trường hợp:


-Kiểm toán viên có đủ cơ sở để kết luận hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết kế có thể ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu;
-Kiểm toán viên có kế hoạch thực hiện thử nghiệm kiểm soát làm cơ sở cho việc đánh giá mức độ rủi ro kiểm soát.


Lưu giữ tài liệu về đánh giá rủi ro kiểm soát


31.Kiểm toán viên phải ghi chép và lưu lại trong hồ sơ kiểm toán:


-Những kết quả đạt được trong việc tìm hiểu hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán;
-Những nhận xét và đánh giá về rủi ro kiểm soát của kiểm toán viên.Trường hợp rủi ro kiểm soát được đánh giá không cao thì kiểm toán viên cũng phải ghi chép và lưu lại các tài liệu làm cơ sở cho việc đánh giá này.


32. Kiểm toán viên có quyền lựa chọn kỹ thuật khác nhau để lưu trữ thông tin liên quan đến hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ. Hình thức và phạm vi lưu trữ tài liệu về đánh giá rủi ro kiểm soát tuỳ thuộc vào quy mô và tính chất phức tạp của đơn vị và của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị. [Ví dụ: Nếu hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ càng phức tạp thì quy trình kiểm tra của kiểm toán viên càng mở rộng và do đó tài liệu kiểm toán phải lập và thu thập càng nhiều hơn].


Thử nghiệm kiểm soát


33. Kiểm toán viên phải thực hiện các thử nghiệm kiểm soát để thu thập đầy đủ bằng chứng về tính hiệu quả của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ trên các phương diện:


-Thiết kế:Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được thiết kế sao cho có đủ khả năng ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu;
-Thực hiện:Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ tồn tại và hoạt động một cách hữu hiệu trong suốt thời kỳ xem xét.


34. Ngoài các thử nghiệm kiểm soát, kiểm toán viên có thể thực hiện các thủ tục kiểm toán khác để thu thập đầy đủ bằng chứng về tính hiệu quả của việc thiết kế và thực hiện của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, như thu thập bằng chứng thông qua việc thu thập thông tin và quan sát các hoạt động của các hệ thống này.


35. Trường hợp kiểm toán viên nhận thấy những thủ tục đã thực hiện cung cấp đầy đủ bằng chứng về tính hiệu quả của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ liên quan đến cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính thì có thể sử dụng những bằng chứng này để chứng minh cho việc đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức thấp hoặc trung bình.


36. Thử nghiệm kiểm soát bao gồm:


- Kiểm tra chứng từ của các nghiệp vụ kinh tế và các sự kiện để thu được bằng chứng kiểm toán về hoạt động hữu hiệu của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, ví dụ kiểm tra các chứng từ liên quan đến phiếu chi tiền có được phê duyệt đầy đủ hay không;

- Phỏng vấn, quan sát thực tế việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm soát của những người thực thi công việc kiểm soát nội bộ xem có để lại bằng chứng kiểm soát hay không;
- Kiểm tra lại việc thực hiện thủ tục kiểm soát nội bộ, ví dụ kiểm tra lại bảng đối chiếu tiền gửi của đơn vị với ngân hàng, xem xét lại biên bản kiểm kê quỹ, kiểm kê hàng tồn kho, đối chiếu lại công nợ để đảm bảo rằng chúng có được đơn vị thực hiện hay không.


37.Kiểm toán viên phải thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để chứng minh choviệc đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức độ không cao. Việc đánh giá mức độ rủi ro kiểm soát càng thấp thì kiểm toán viên càng phải chứng minh rõ là hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ đã được thiết kế phù hợp và hoạt động hiệu quả.


38. Để chứng minh là hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động có hiệu quả, kiểm toán viên phải xem xét cụ thể các thủ tục kiểm soát nội bộ đang áp dụng, tính nhất quán trong việc áp dụng các thủ tục và người thực hiện kiểm soát trong suốt niên độ. Hệ thống kiểm soát nội bộ có thể vẫn được đánh giá là có hiệu quả ngay cả khi thực hiện chưa đầy đủ các qui định do có sự thay đổi nhân sự chủ chốt; do hoạt động mang tính thời vụ hoặc do sai sót của con người. Trường hợp có những biến động như nêu trên, kiểm toán viên phải xem xét riêng từng trường hợp, đặc biệt là khi có thay đổi nhân sự phụ trách kiểm soát nội bộ thì kiểm toán viên phải thực hiện các thử nghiệm kiểm soát trong thời gian có sự thay đổi đó.


39. Mục tiêu thử nghiệm kiểm soát không thay đổi, nhưng thủ tục kiểm toán có thể thay đổi khi công việc kế toán và kiểm soát nội bộ được thực hiện trong môi trường tin học hoặc thực hiện thủ công. Khi công việc kế toán và kiểm soát nội bộ được thực hiện trên máy vi tính thì kiểm toán viên có thể sử dụng kỹ thuật kiểm toán bằng máy vi tính để thu thập bằng chứng đánh giá hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ.


40.Dựa trên kết quả các thử nghiệm kiểm soát, kiểm toán viên phải xác định xem hệ thống kiểm soát nội bộ có được thiết kế và thực hiện phù hợp với đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát hay không.Nếu có thay đổi lớn thì kiểm toán viên phải xem xét lại mức độ rủi ro kiểm soát và phải thay đổi nội dung, lịch trình và phạm vi thử nghiệm cơ bản đã dự kiến.
Đánh giá cuối cùng về rủi ro kiểm soát


41.Trước khi rút ra kết luận kiểm toán, kiểm toán viên phải dựa vào kết quả các thử nghiệmcơ bản và những bằng chứng kiểm toán khác để khẳng định lại quá trình đánh giá của mình về rủi ro kiểm soát.


Mối liên hệ giữa rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát


42. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát có liên hệ chặt chẽ với nhau nên kiểm toán viên cần kết hợp cùng lúc việc đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát .


Rủi ro phát hiện


43.Mức độ rủi ro phát hiện có liên quan trực tiếp đến thử nghiệm cơ bản của kiểm toán viên.


Kiểm toán viên phải dựa vào đánh giá mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát để xácđịnh nội dung, lịch trình và phạm vi thử nghiệm cơ bản để giảm rủi ro phát hiện và giảm rủi ro kiểm toán xuống thấp đến mức có thể chấp nhận được.


Để giảm rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán, kiểm toán viên cần xem xét:


- Nội dung thử nghiệm cơ bản, ví dụ thủ tục thu thập tài liệu, hoặc xác nhận thông tin từ bên ngoài độc lập với đơn vị có giá trị cao hơn là thu thập tài liệu trong nội bộ đơn vị; hoặc kết hợp kết quả kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và số dư với thủ tục phân tích;
- Lịch trình của thử nghiệm cơ bản, ví dụ thủ tục kiểm tra số dư hàng tồn kho cuối năm được thực hiện vào cuối niên độ kế toán có giá trị cao hơn là thực hiện kiểm tra vào một thời điểm khác và phải điều chỉnh;
- Phạm vi thử nghiệm cơ bản, ví dụ xác định cỡ mẫu kiểm tra rộng hơn là hẹp.
Tuy nhiên, khó có thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro phát hiện ngay cả khi kiểm toán viên kiểm tra chi tiết toàn bộ các nghiệp vụ và số dư tài khoản.


44. Mức độ rủi ro phát hiện tỷ lệ nghịch với mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Ví dụ: khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá là cao thì rủi ro phát hiện có thể được đánh giá ở mức độ thấp để giảm rủi ro kiểm toán xuống thấp đến mức có thể chấp nhận được. Ngược lại, khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá là thấp thì có thể chấp nhận mức độ rủi ro phát hiện cao hơn nhưng vẫn đảm bảo giảm rủi ro kiểm toán xuống thấp đến mức có thể chấp nhận được [Xem Phụ lục số 01].


45. Mục tiêu của thử nghiệm cơ bản và thử nghiệm kiểm soát là khác nhau, nhưng kết quả thu được từ hai loại thử nghiệm này có thể bổ sung cho nhau trong việc thực hiện đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Ví dụ: Những sai sót phát hiện được trong thử nghiệm cơ bản có thể buộc kiểm toán viên phải xem xét lại đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát.


46.Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát dù được đánh giá ở mức độ thấp nhất thì kiểm toánviên vẫn phải thực hiện thử nghiệm cơ bản đối với các loại nghiệp vụ và số dư các tài khoản trọng yếu.


47. Đánh giá của kiểm toán viên về các loại rủi ro có thể thay đổi trong quá trình thực hiện kiểm toán. Ví dụ: khi thực hiện các thử nghiệm cơ bản, nếu phát hiện thêm những thông tin khác biệt lớn so với thông tin ban đầu thì kiểm toán viên phải thay đổi kế hoạch thực hiện thử nghiệm cơ bản cho phù hợp với việc đánh giá lại rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát.


48. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá càng cao thì kiểm toán viên càng phải thu thập nhiều bằng chứng kiểm toán từ các thử nghiệm cơ bản . Khi kiểm toán viên xác định rằng không thể giảm rủi ro phát hiện liên quan đến cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính, đến số dư tài khoản hoặc các nghiệp vụ trọng yếu đến mức có thể chấp nhận được thì kiểm toán viên phải đưa raý kiến chấp nhận từngphần hoặc ý kiến từ chối.


Rủi ro kiểm toán trong đơn vị có quy mô nhỏ


49. Mức độ đảm bảo đưa ra ý kiến nhận xét của kiểm toán viên về báo cáo tài chính là như nhau đối với mọi quy mô của đơn vị kiểm toán. Hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị lớn thường không phù hợp với đơn vị nhỏ [Ví dụ: Trong đơn vị lớn, người làm kiểm soát thường độc lập với người làm kế toán, trong khi đơn vị nhỏ, người làm kế toán có thể kiêm nhiệm công việc kiểm soát đã làm hạn chế vai trò của kiểm soát nội bộ. Trong đơn vị nhỏ, công việc kiểm soát thường được tập trung vào một số ít người]. Trường hợp công việc kiểm soát nội bộ bị giới hạn bởi việc không phân chia nhiệm vụ thì ý kiến của kiểm toán viên về báo cáo tài chính phải hoàn toàn dựa trên bằng chứng thu thập được từ thử nghiệm cơ bản.


Thông báo các hạn chế phát hiện được


50. Trong quá trình tìm hiểu hệ thống kế toán, hệ thống kiểm soát nội bộ và thực hiện thử nghiệm kiểm soát, kiểm toán viên có thể phát hiện ra các hạn chế của hệ thống.Khi đó, kiểm toán viên phải thông báo trong thời gian nhanh nhất cho ngườicó trách nhiệm của đơn vị về những hạn chế chủ yếu trong thiết kế và thực hiện của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ.


Việc thông báo phải thực hiện bằng văn bản. Nếu xét thấy chỉ cần thông báo bằng lời nói thì nội dung thông báo cũng phải được lưu lại bằng giấy trong hồ sơ kiểm toán./.

Phụ lục số 01


Mối liên hệ giữa các loại rủi ro


Sự biến động của rủi ro phát hiện dựa theo đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được thể hiện trong bảng sau đây:


Đánh giá của kiểm toán viên về
rủi ro kiểm soát

Cao

Trung bình

Thấp

Đánh giá của
kiểm toán viên về
rủi ro tiềm tàng

Cao

Thấp nhất

Kiểm toán căn bản Rủi Ro kiểm toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [442.95 KB, 14 trang ]

RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
1

KIỂM TOÁN CĂN BẢN
ĐỀ TÀI: RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN
THỰC HIỆN: NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 PHÒNG D3

1. KHÁI NIỆM RỦI RO KIỂM TOÁN
Rủi ro kiểm toán là rủi ro [khả năng] mà KTV đưa ra ý kiến nhận xét
không thích hợp khi BCTC đã được kiểm toán vẫn còn có những sai sót trọng yếu.
Rủi ro kiểm toán là hệ quả của rủi ro có sai sót trọng yếu [gồm rủi ro tiềm
tàng, rủi ro kiểm soát] và rủi ro phát hiện. Việc đánh giá rủi ro được thực hiện
dựa trên các thủ tục kiểm toán để thu thập thông tin cần thiết phục vụ mục đích
đánh giá rủi ro và dựa vào bằng chứng thu thập trong suốt quá trình kiểm toán.
Việc đánh giá rủi ro gắn với xét đoán chuyên môn nhiều hơn là đo lường chính
xác.
Do đó, trong thực tiễn, khi kiểm toán, KTV không phải lúc nào cũng đưa ra
một báo cáo kiểm toán đúng đắn. Trong kiểm toán luôn chứa đựng những rủi ro
tiềm ẩn không thể lường trước. Đế thận trọng và giảm mức rủi ro kiểm toán đến
mức có thể chấp nhận được KTV thường mở rộng phạm vi kiểm toán và áp dụng
thêm các thủ tục kiểm toán so với kế hoạch [hay dự kiến ban đầu] của KTV.
Rủi ro kiểm toán có thể chấp nhận được là khả năng trong BCTC đã được
kiểm toán còn chứa đựng những sai phạm mà những sai phạm này có thể chấp
nhận được [sai sót có thể bỏ qua] chưa đến mức độ là những sai sót trọng yếu.

2. CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH RỦI RO KIỂM TOÁN
2.1. Rủi ro có sai sót trọng yếu:
Rủi ro có sai sót trọng yếu có thể tồn tại ở hai cấp độ:
[1] Cấp độ tổng thể báo cáo tài chính.
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
2



[2] Cấp độ cơ sở dẫn liệu của các nhóm giao dịch, số dư tài khoản và thông tin
thuyết minh.

- Rủi ro có sai sót trọng yếu ở cấp độ tổng thể báo cáo tài chính là những rủi ro có
sai sót trọng yếu có ảnh hưởng lan tỏa đối với tổng thể báo cáo tài chính và có thể
ảnh hưởng tiềm tàng tới nhiều cơ sở dẫn liệu.
Việc đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu ở cấp độ cơ sở dẫn liệu giúp kiểm toán
viên xác định nội dung, lịch trình, phạm vi của các thủ tục kiểm toán cần thực hiện
tiếp theo nhằm thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp. Bằng chứng này
cho phép kiểm toán viên đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính ở mức độ rủi ro kiểm
toán thấp có thể chấp nhận được. Kiểm toán viên có thể sử dụng nhiều phương
pháp khác nhau để đạt được mục tiêu đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu.
Ví dụ: Để làm cho rủi ro phát hiện ở mức độ có thể chấp nhận được, kiểm toán
viên có thể sử dụng một mô hình toán học để thể hiện mối liên hệ giữa các thành
phần của rủi ro kiểm toán. Một kiểm toán viên khác lại thấy mô hình đó là hữu ích
khi lập kế hoạch về các thủ tục kiểm toán.

- Rủi ro có sai sót trọng yếu ở cấp độ cơ sở dẫn liệu bao gồm hai bộ phận:
+ Rủi ro tiềm tàng.
+ Rủi ro kiểm soát.
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát là rủi ro của đơn vị được kiểm toán và tồn
tại một cách độc lập đối với cuộc kiểm toán báo cáo tài chính.




RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
3


2.1.1. Rủi ro tiềm tàng
2.1.1.1. Khái niệm:
Là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong
báo cáo tài chính chứa đựng những sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính
gộp, cho dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ.
- Trách nhiệm KTV: Khi lập chương trình kiểm toán, KTV phải xác định cụ thể
mức độ rủi ro tiềm tàng cho các số dư hoặc loại nghiệp vụ quan trọng đến từng cơ
sở dẫn liệu. Trường hợp không thể xác định được thì kiểm toán viên phải giả định
rằng rủi ro tiềm tàng là cao cho cơ sở dẫn liệu đó. Căn cứ vào mức độ đánh giá rủi
ro tiềm tàng để dự kiến các công việc, thủ tục kiểm toán sẽ được thực hiện cho các
nghiệp vụ, các khoản mục trọng yếu trên các BCTC hoặc các nghiệp vụ, các
khoản mục mà kiểm toán viên cho là có rủi ro tiềm năng cao.

2.1.1.2. Cơ sở đánh giá rủi ro tiềm tàng:
Kiểm toán viên phải dựa vào việc xét đoán chuyên môn của mình để đánh
giá rủi ro tiềm tàng trên những nhân tố chủ yếu sau:
* Trên phương diện báo cáo tài chính:
- Sự liêm khiết, kinh nghiệm và hiểu biết của Ban Giám đốc cũng như sự thay đổi
thành phần Ban quản lý xảy ra trong niên độ kế toán;
- Trình độ và kinh nghiệm chuyên môn của kế toán trưởng, của các nhân viên kế
toán chủ yếu, của kiểm toán viên nội bộ và sự thay đổi [nếu có] của họ.
- Những áp lực bất thường đối với Ban Giám đốc, đối với kế toán trưởng, nhất là
những hoàn cảnh thúc đẩy Ban Giám đốc, kế toán trưởng phải trình bày báo cáo
tài chính không trung thực;
- Đặc điểm hoạt động của đơn vị, như: Quy trình công nghệ, cơ cấu vốn, các đơn
vị phụ thuộc, phạm vi địa lý, hoạt động theo mùa vụ;
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
4

- Các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động của đơn vị, như: các biến động

về kinh tế, về cạnh tranh, sự thay đổi về thị trường mua, thị trường bán và sự thay
đổi của hệ thống kế toán đối với lĩnh vực hoạt động của đơn vị.
* Trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ:
- Báo cáo tài chính có thể chứa đựng những sai sót, như: Báo cáo tài chính có
những điều chỉnh liên quan đến niên độ trước; báo cáo tài chính có nhiều ước tính
kế toán, hoặc trong năm tài chính có sự thay đổi chính sách kế toán;
- Việc xác định số dư và số phát sinh của các tài khoản và nghiệp vụ kinh tế, như:
Số dư các tài khoản dự phòng, nghiệp vụ kinh tế đối với chi phí phát sinh sau ghi
nhận ban đầu TSCĐ tính vào chi phí hay tính tăng nguyên giá TSCĐ, ;
- Mức độ dễ bị mất mát, biển thủ tài sản, như: phát sinh nhiều nghiệp vụ thu, chi
tiền mặt, tạm ứng tiền với số lượng lớn, thời gian thanh toán dài ;
- Mức độ phức tạp của các nghiệp vụ hay sự kiện quan trọng đòi hỏi phải có ý kiến
của chuyên gia, như: xảy ra kiện tụng hoặc trộm cắp ;
- Việc ghi chép các nghiệp vụ bất thường và phức tạp, đặc biệt là gần thời điểm
kết thúc niên độ;
- Các nghiệp vụ kinh tế, tài chính bất thường khác.
2.1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng:
- Bản chất kinh doanh của khách hàng: như công việc sản xuất kinh
doanh, các loại sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp tạo ra được cung cấp
cho thị trường, các yếu tố có tác động của ngành nghề, môi trường kinh tế, địa
điểm hoạt động, cơ cấu vốn, tính chất thời vụ, sự biến động của thị trường mua và
bán…
Ví dụ: Đơn vị kinh doanh là Ngân hàng A , khách hàng B của đơn vị A vay tiền
kinh doanh bất động sản, trong thời kì thị trường bất động sản đóng băng, khách
hàng B ko bán được hàng => rủi ro ko thu hồi đước khoản cho vay.
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
5

- Bản chất của các bộ phận, khoản mục được kiểm toán, như: các khoản mục
khác nhau trên BCTC thì khả năng chứa đựng những sai phạm trọng yếu sẽ khác

nhau, như khoản mục hàng tồn kho có khả năng chứa đựng những sai phạm trọng
yếu nhiều hơn là khoản mục tiền mặt vì hàng tồn kho phải thông qua nhiều khâu
tính toán, đánh giá, tính nhất quán của phương pháp tính giá xuất kho, phương
pháp lập dự phòng giảm giá…
Ví dụ: Siêu thị Big C buôn bán rất nhiều các mặt hàng sản phẩm với số lượng lớn
và liên tục nhập xuất hàng trong kỳ kinh doanh => rất dễ xảy ra rủi ro trong tính
toán, đánh giá hàng tồn kho, nhập xuất trong kỳ.
- Bản chất hệ thống kế toán và thông tin trong đơn vị như mức độ, tính chất phức
tạp, phạm vi và tính hiệu quả của hệ thống điện toán hay của các phương tiện, thiết
bị thông tin tính toán áp dụng trong doanh nghiệp.
Ví dụ: Doanh nghiệp kinh doanh lưu trữ thông tin mọi hoạt động trên máy tính
=> rủi ro bị mất cắp thông tin, lỗi thông tin do máy móc hỏng hóc











RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
6

2.1.1.4. Quy trình tự đánh giá rủi ro tiềm năng:




Công ty A Công ty B Công ty C








Khách hàng A Khách hàng B Khách hàng C

2.1.1.5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu rủi ro tiềm tàng:
Việc nghiên cứu, phân tích đánh giá rủi ro tiềm tàng có ý nghĩa rất quan
trọng trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán. Mức rủi ro tiềm tàng ở mỗi doanh
nghiệp mà KTV dự kiến cao thấp khác nhau sẽ là căn cứ và là cơ sở để KTV xác
định về khối lượng, quy mô, phạm vi công việc kiểm toán cần thực hiện. Đây sẽ là
căn cứ để KTV dự kiến biên chế, thời gian, chi phí và các phương tiện cần thiết
khác cho một cuộc kiểm toán. Khi phân tích đánh giá rủi ro tiềm tàng ở một doanh
nghiệp mà KTV kiểm toán đòi hỏi KTV phải có một sự hiểu biết sâu sắc, toàn
diện và đầy đủ về thực trạng hoạt động của doanh nghiệp và các yếu tố tác động
TỔNG CÔNG TY
Toàn bộ BCTC
Khoản phải thu
Phải thu từ bán lẻ
Phải thu từ bán buôn khó đòi
Dự phòng phải thu khó đòi
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
7

đến rủi ro tiềm tàng, cũng như đòi hỏi KTV phải có một sự xét đoán nghề nghiệp

với những kinh nghiệp khá tốt mới có thể có được một kết quả sát thực.

2.1.2. Rủi ro kiểm soát.
2.1.2.1. Khái niệm
Là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu, khi xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, đối với cơ sở
dẫn liệu của một nhóm giao dịch, số dư tài khoản hay thông tin thuyết minh mà
kiểm soát nội bộ của đơn vị không thể ngăn chặn hoặc không phát hiện và sửa
chữa kịp thời
2.1.2.2. Nhân tố ảnh hưởng
- Tính chất mới mẻ và phức tạp của các laoij giao dịch.
- Khối lượng và cường độ của giao dịch nhiều hay ít, mạnh hay yếu
- Số lượng và chất lượng của hệ thống nhân lực tham gia kiểm soát trong doanh
nghiệp
- Tính hiệu lực, hợp lí, hiệu quả của các thủ tục kiểm soát và trình tự kiểm soát
trong doanh nghiệp.
- Tính khoa học, thích hợp và hiệu quả của các thủ tục kiểm soát và trình tự
kiểm soát trong doanh nghiệp.
- Tính khoa học, thích hợp và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ như việc
sắp xếp phân công đúng người đúng việc, việc bố trí sử dụng một cách tối ưu
các phương tiện, thiết bị kết hợp với con người trong quá trình kiểm soát.

2.1.2.3. Đặc điểm rủi ro kiểm soát.
- Kiểm toán viên không tạo ra rủi ro kiểm soát và cũng không kiểm soát được
chúng. Họ chỉ có thể đánh giá hhệ thống kiểm soát của đơn vị và từ đó đưa ra
mức rủi ro kiểm soát dự kiến.
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
8

- Rủi ro kiểm soát phải được xây dựng cho từng bộ phận và có thể khác nhau đối
với các tài khoản khác nhau. Ví dụ như: Rủi ro kiểm soát ở bộ phận hàng tồn

kho sẽ lớn hơn rủi ro kiểm soát đối với các khoản phải thu.Cách thức đánh giá
2.1.2.4. Cách thức đánh giá.
Ta có các bước tiến hành đánh giá rủi ro kiểm soát như sau:
Bước 1: Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát là việc định giá hiệu quả hệ thống
kiểm soát nội bộ đơn vị trong việc ngăn ngừa hoặc phát hiện và sửa chữa các sai
sót trọng yếu. Rủi ro kiểm soát thường không hoàn được loại trừ do sự hạn chế
tiềm tàng của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ.
Dựa trên sự hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ,
KTV và công ty kiểm toán phải đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát cho từng cơ
dở dẫn liệu với từng số dư tài khoản hoặc các loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu.

Bước 2: Lưu giữ tài liệu về đánh giá rủi ro kiểm soát.
- Kiểm toán viên phải ghi chép, lưu giữ trong hồ sơ kiểm toán
- KTV có quyền lựa chọn kỹ thuật khác nhau để lưu trữ thông tin liên quan hệ
thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ

Bước 3: Thử nghiệm kiểm soát bao gồm
- Kiểm tra chứng từ của các nghiệp vụ kinh tế để thu được bằng chứng kiểm
toán về hoạt động hữu hiệu của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ.
VD kiểm tra các chứng từ liên quan đến chi phiếu chi tiền có được phê duyệt
đầy đủ hay không.
- Phỏng vấn, quan sát thực tế việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm soát của
những người thực thi công việc kiểm soát nội bộ xem có để lại bằng chứng
kiểm soát hay không.
- Kiểm tra lại việc thực hiện thủ tục kiểm soát nội bộ VD: kiểm tra lại bảng cân
đối tiền gửi của đơn vị với ngân hàng, xem xét lại biên lai kiểm kê quỹ, hàng
tồn kho,…
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
9


Bước 4: Đánh giá cuối cùng về rủi ro kiểm soát.
Trước khi rút ra kết luận kiểm toán, KTV phải dựa vào kết quả các thử
nghiệm cơ bản và những bằng chứng kiểm toán khác để khẳng định lại quá trình
đánh giá của mình về rủi ro kiểm soát.

2.2. Rủi ro phát hiện
2.2.1. Khái niệm
Rủi ro phát hiện là rủi ro mà trong quá trình kiểm toán, các thủ tục mà kiểm
toán viên thực hiện nhằm làm giảm rủi ro kiểm toán xuống tới mức thấp có thể
chấp nhận được nhưng vẫn không phát hiện được hết các sai sót trọng yếu khi xét
riêng lẻ hoặc tổng hợp lại.

2.2.2. Nhân tố ảnh hưởng
- Phạm vi kiểm toán: Nếu phạm vi kiểm toán càng rộng thì khả năng phát hiện ra
gian lận, sai sót tăng lên, rủi ro phát hiện giảm và ngược lại.
- Phương pháp kiểm toán: Nếu phương pháp kiểm toán càng khoa học, thích hợp
và hiệu quả thì khả năng phát hiện các gian lận, sai sót tăng lên tức là các gian
lận, sai sót không phát hiện được sẽ giảm xuống, có nghĩa là rủi ro phát hiện
giảm và ngược lại.
- Trình độ, kinh nghiệm và khả năng xét đoán nghề nghiệp của KTV: KTV có
trình độ chuyên môn cao, có nhiều kinh nghiệm và khả năng xét đoán tốt thì dễ
phát hiện được nhiều gian lận, sai sót và do đó rủi ro phát hiện giảm và ngược
lại.
2.2.3. Đặc điểm rủi ro phát hiện
- Rủi ro phát hiện liên qua đến nội dung, lịch trình, phạm vi các thủ tục được
KTV xác định để giảm rủi ro kiểm toán xuống mức độ thấp có thể chấp nhận
được.
- Rủi ro phát hiên thể hiện tính hiệu quả của các thủ tục kiểm toán và việc thực
hiện của KTV. [VAS 200, A43]
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3

10

- Với 1 mức rủi ro kiểm toán xác định trước, mức độ rủi ro phát hiện được chấp
nhận ở mối quan hệ trái chiều với rủi ro có sai sót trọng yếu được đánh giá ở
cấp độ cơ sở dữ liệu.

2.2.4. Cách thức đánh giá
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV có thể xác định được mức rủi
ro phát hiện có thể chấp nhận được [rủi ro phát hiện mong muốn], đây là mức rủi
ro mà không ảnh hưởng tới việc ra quyết định của KTV dựa trên mức độ rủi ro
mong muốn được xác đinh cùng với đánh giá ban đầu về rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát.

Theo mô hình Rủi ro kiểm toán: DR = AR/[IR*CR]

Giả định rằng, KTV mong muốn đạt được 1 mức rủi ro kiểm toán thấp nhất
và mức rủi ro kiểm toán đạt được có thể bằng hoặc thấp hơn mức rủi ro kiểm toán
mong muốn thì mức rủi ro kiểm toán mong muốn có thể được thay thế cho mức
rủi ro kiểm toán đạt được nhằm xác định mức độ của rủi ro phát hiện có thể chấp
nhận được, vì khi đó rủi ro phát hiện sẽ được xác định ở mức cao nhất.
Tuy nhiên thì việc đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát không chỉ
được thực hiện trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, các loại rủi ro này có thể
được KTV đánh giá tăng lên hay giảm đi trong suốt quá trình kiểm toán vì sự hiểu
biết về hoạt động kinh doanh của khách hàng, về hệ thống kiểm soát nội bộ sẽ thay
đổi trong quá trình kiểm toán. Ví dụ những sai sót được phát hiện trong thử
nghiệm cơ bản có thể buộc KTV phải xem xét lại đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm
soát. Và do vậy, KTV cũng phải điều chỉnh lại mức độ rủi ro kiểm toán mong
muốn.



RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
11

3. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH RỦI RO KIỂM TOÁN
Rủi ro kiểm toán do 2 bộ phận cấu thành là: rủi ro có sai sót trọng yếu [bao
gồm rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát] và rủi ro phát hiện, giữa chúng có mối
liên hệ mật thiết với nhau.
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát là hai loại rủi ro vẫn luôn tồn tại trong
hoạt động và môi trường kinh doanh của doanh nghiệp cũng như tồn tại trong bản
chất của các khoản mục, nghiệp vụ kinh tế. KTV không tạo ra và cũng không thể
kiểm soát được chúng. KTV chỉ có thể thông qua thu thập bằng chứng kiểm toán
tại đơn vị khách hàng và bằng kinh nghiệm của mình để đánh giá mức độ của
chúng.
Ngược lại, KTV có thể kiểm soát và điều chỉnh mức độ rủi ro phát hiện
thông qua việc lập kế hoạch kiểm toán phù hợp, định hướng, giám sát và kiểm tra
chặt chẽ, điều chỉnh nội dung, thời gian, phạm vi và thực hiện có hiệu quả các thủ
tục kiểm toán.
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát quyết định đến khối lượng, quy mô,
phạm vi và chi phí kiểm toán. Nếu rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều cao thì
KTV phải dự kiến rủi ro phát hiện là thấp. Có nghĩa là, trong trường hợp này,
KTV phải làm nhiều công việc kiểm toán với quy mô, chi phí kiểm toán lớn.
Mức độ rủi ro phát hiện luôn có quan hệ ngược chiều với rủi ro tiềm tàng
và rủi ro kiểm soát. Mối quan hệ giữa 3 bộ phận này được thể hiện thông qua 2
dạng mô hình định tính và định lượng.




RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
12


3.1. Mô hình định tính
Dựa trên cơ sở đánh giá của KTV về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát,
mức rủi ro phát hiện được xác định theo ma trận sau:


Đánh giá của KTV về rủi ro tiềm tàng [IR]
Cao
Trung bình
Thấp
Đánh giá của
KTV về rủi ro
kiểm soát
[CR]
Cao
Thấp nhất
Thấp
Trung bình
Trung bình
Thấp
Trung bình
Cao
Thấp
Trung bình
Cao
Cao nhất

Trong đó:
- Mỗi loại rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều được chia thành 3 mức: cao
trung bình và thấp.

- Vùng tô đậm thể hiện mức độ rủi ro phát hiện.
- Loại rủi ro phát hiện được chia thành 5 mức: cao nhất, cao, trung bình, thấp, thấp
nhất.
Ma trận minh hoạ về mối quan hệ giữa các loại RR do KTV dự kiến thường
được thực hiện ngay trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Tuy nhiên, trong thực
tiễn, khi thực hành kiểm toán, nếu KTV có bằng chứng để điều chỉnh lại RR tiềm
tàng và RR kiểm soát thì RR phát hiện cũng được KTV điều chỉnh lại.
Theo chuẩn mực kiểm toán số 200 [A42]: Với một mức rủi ro kiểm toán
xác định trước, mức độ rủi ro phát hiện được chấp nhận có mối quan hệ trái chiều
với rủi ro có sai sót trọng yếu được đánh giá ở cấp độ cơ sở dẫn liệu. Ví dụ, nếu
kiểm toán viên xác định là rủi ro có sai sót trọng yếu ở mức độ càng cao thì rủi ro
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
13

phát hiện có thể chấp nhận ở mức càng thấp, và càng cần các bằng chứng kiểm
toán có tính thuyết phục cao hơn.
 Mức độ rủi ro phát hiện có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với mức độ rủi ro tiềm
tàng và rủi ro kiểm soát.
Ví dụ: Trường hợp mức độ rủi ro tiềm tàng được KTV đánh giá là cao và mức dộ
rủi ro kiểm soát được KTV đánh giá là thấp thì mức độ rủi ro phát hiện có thể
đánh giá là trung bình nhằm giảm rủi ro kiểm toán xuống thấp đến mức có thể
chấp nhận được. Ngược lại, nếu mức độ rủi ro tiềm tàng là thấp và rủi ro kiểm
soát được đánh giá là trung bình thì có thể xác định mức độ rủi ro phát hiện là
cao nhưng vẫn đảm bảo rủi ro kiểm toán là thấp có thể chấp nhận được.
3.2. Phương trình rủi ro kiểm toán [Định lượng]
Về mặt định lượng, mối quan hệ giữa các loại rủi ro được thể hiện qua công thức
sau: AR = IR*CR*DR
Trong đó, AR: rủi ro kiểm toán
IR: rủi ro tiềm tàng
CR: rủi ro kiểm soát

DR: rủi ro phát hiện.
Theo chuẩn mực kiểm toán 200 [A40]: Các chuẩn mực kiểm toán thường
không hướng dẫn riêng về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát mà thường hướng
dẫn sự đánh giá kết hợp về “rủi ro có sai sót trọng yếu”. Tuy nhiên, kiểm toán viên
có thể đánh giá riêng hoặc đánh giá kết hợp cả rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát,
tùy theo kỹ thuật hoặc phương pháp luận kiểm toán và các phương pháp thực hành
kiểm toán mà kiểm toán viên lựa chọn. Việc đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu có
thể được thể hiện bằng các thuật ngữ có tính định lượng như tỷ lệ phần trăm, hoặc
các thuật ngữ phi định lượng. Trong mọi trường hợp, sự cần thiết phải thực hiện
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
14

đánh giá rủi ro một cách thích hợp còn quan trọng hơn so với việc sử dụng phương
pháp nào để đánh giá rủi ro.
Tuy được biểu thị bằng công thức nhưng cần phải lưu ý rằng đây không
phải là công thức thuần tuý về mặt toán học mà là mô hình để trợ giúp KTV trong
việc phán đoán và xác định mức độ sai sót có thể chấp nhận được để làm cơ sở
thiết kế các thủ tục kiểm toán. Việc đánh giá RR kiểm toán [bao gồm cả đánh giá
RR tiềm tàng, RR kiểm soát, RR phát hiện] có thể được thay đổi trong quá trình
thực hiện kiểm toán. VD: Khi thực hiện các thử nghiệm cơ bản, KTV phải thay
đổi kế hoạch thực hiện thử nghiệm cơ bản cho phù hợp với RR tiềm tàng và RR
kiểm soát đã được KTV điều chỉnh lại].


HẾT

CÁC THÀNH VIÊN NHÓM 8:
1. Vũ Tuyên Hoàng [Nhóm trưởng]
2. Phạm Tiến Dũng
3. Đinh Xuân Minh

4. Nguyễn Thị Thương
5. Vũ Thị Thanh Huyền
6. Bùi Thị Ngọc

Đánh giá tính trọng yếu và rủi rotrong kiểm toán báo cáo tài chính

ThS. Nguyễn Thị Thu Thư, ThS. Nguyễn Thị Ngọc Bích - Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh Thái Nguyên

11:33 12/04/2021

Video liên quan

Chủ Đề