Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc

Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc

Quảng cáo

Câu hỏi: Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn dề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc?

Trả lời:

- Làm phong phú học thuyết Mác Lênin về cách mạng thuộc địa

+ Về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc

Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin xác định con đường cứu nước theo khuynh hướng chính trị vô sản, nhưng con đường cách mạng giải phóng dân tộc là do Hồ Chí Minh hoạch định, chứ không phải đã tồn tại từ trước.

Hồ Chí Minh không tự khuôn mình trong những nguyên lý có sẵn không rập khuôn máy móc lý luận đấu tranh giai cấp vào điều kiện lịch sử ở thuộc địa, mà có sự kết hợp hài hòa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp và giải quyết vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc gắn độc lập dân tộc với phương hướng xã hội chủ nghĩa.

Sử dụng “phương pháp làm việc biện chứng”, Người đã phân tích thực tiễn xã hội thuộc địa, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa xây dựng nên lý luận cách mạng giải phóng dân tộc và truyền bá vào Việt Nam.

Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh bao gồm một hệ thống những quan điểm sáng tạo, độc đáo. Lý luận đó phải trải qua những thử thách hết sức gay gắt. Trong những năm 1923-1924, 1927-1928 và 1934- 1938, Quốc tế Cộng sản không ủng hộ mà coi đó là những tư tưởng “dân tộc chủ nghĩa”. Những năm 1930-1935 tư tưởng đó bị phê phán trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng và trên báo chí ở nước ngoài. Song, thực tiễn đã chứng minh lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là đúng đắn.

+ Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc

Phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh hết sức độc đáo và sáng tạo thấm nhuần tính nhân văn.

Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa nhất là so sánh lực lượng quá chênh lệch về kinh tế và quân sự giữa các dân tộc bị áp bức và chủ nghĩa đế quốc. Hồ Chí Minh đã xây dựng nên lý luận về phương pháp khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân.

Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ sáng tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phướng pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Đó là một di sản tư tưởng quân sự vô giá mà Hồ Chí Minh để lại cho Đảng và nhân dân ta.

- Làm chuyển hóa phong trào yêu nước, tạo điều kiện cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam

+ Làm chuyển hóa phong trào yêu nước Việt Nam

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc là ánh sáng soi đường cho lớp thanh niên yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX đang đi tìm chân lý, là ngọn cờ hướng đạo phong trào cách mạng Việt Nam trước khi

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng đó được những người Việt Nam yêu nước tiếp thu như một ánh sáng chân lý của chính mình, “giống như người đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”.

Tư tưởng đó thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, góp phần quyết định trong việc xác lập con đường cứu nước mới, làm cho phong trào yêu nước Việt Nam chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản.

Hồ Chí Minh đã tập hợp những thanh niên yêu nước Việt Xam rồi đem chủ nghĩa Mác – Lênin và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc truyền bá cho họ dẫn dắt họ đi theo con đường mà chính Người đã trải qua: từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự chuyển hóa tiêu biểu nhất là Tân Việt cách mạng đảng, từ lập trường tư sản đã chuyển sang lập trường vô sản.

Đó là sự chuyển hóa mang tính cách mạng, đưa sự nghiệp gỉai phóng và phát triển dân tộc tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

+ Tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Xam

Trước hết. cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là một vũ khí tư tưởng mới của phong trào yêu nước Việt Nam, làm cho phong trào yêu nước chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản và cũng trở thành một trong những điều kiện dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hai là, lý luận cách mạng giải phóng dân tộc và chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào giai cấp công nhân, soi đường chỉ lối cho giai cấp công nhân đấu tranh, làm cho giai cấp công nhân ngày càng giác ngộ, phong trào công nhân Việt Nam phát triển mạnh theo phương hướng từ tự phát đến tự giác và trở thành một điều kiện dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ba là. lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh, nhất là những tư tưởng hình thành trong những năm 20 của thế kỷ XX là sự chuẩn bị tích cực về mặt tư tưởng chính trị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Đặt cơ sở để xây dựng nên đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng

+ Là cơ sở hình thành Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc, phản ánh yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng nguyện vọng độc lập, tự do của quần chúng nhân dân, phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của thời đại đặt nền móng vững chắc để xây dựng nền Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và được Hội nghị thành lập Đảng thông qua đầu năm 1930.

+ Là cơ sở để phát triển và hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội qua ba giai đoạn chiến lược

Từ tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh, Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung

ương Đảng [5-1941] đã xác định đưòng lối cách mạng giải phóng dân tộc với chủ trương “thay đổi chiến lược”, nhấn mạnh cuộc đấu tranh dân tộc ở thuộc địa. Đó là những bước đi khác nhau để tiến lên chủ nghĩa xã hội. là biểu hiện của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được khẳng định ngay từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

+ Là cơ sở của đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc được tiếp tục phát triển trong tiến trình cách mạng Việt Nam; được quán triệt, vận dụng và phát triển trong sự nghiệp kháng chiến - kiến quõc. Hình thành nên đường lối quân sự nói chung và đường lối chiến tranh nhân dân nói riêng của Đảng Cộng sản Việt Nam nhất là trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.

Đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng phát triển và ngày càng hoàn chỉnh gắn liền với sự nghiệp và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Đó là ngọn cờ trăm trận trăm thắng của dân tộc Việt Nam trước những kẻ thù đế quốc lớn mạnh.

- Soi đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và 30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam [1940-1975] đã chứng minh tinh thần độc lập, tự chủ tính khoa học, tính cách mạng và sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc ở Việt Nam, soi đường cho dân tộc Việt Nam tiến lên. Cùng nhân loại biến thế kỷ XX thành một thế kỷ giải trừ chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới. Những thắng lợi chiến lược của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX chứng tỏ hùng hồn giá trị khoa học và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.

Bài tiếp theo

  • Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

    Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin. Đó là các luận điểm về bản chất, mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội;

  • Những quan điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc

    Tất cả các phong trào cứu nước của ông cha, mặc dù đã diễn ra vô cùng anh dũng nhưng rốt cuộc đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Đất nước lâm vào “tình hình đên tối tưởng như không có đường ra". Nó đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm một con đường cứu nước mới.

  • Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc

    Hồ Chí Minh sớm nhận thấy, yêu cầu của xã hội thuộc địa là phải tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc chứ không phải là đấu tranh giai cấp như trong các xã hội tư bản chủ nghĩa phương Tây.

  • Giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dân tộc và nhân loại

    Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của thời đại, trường tồn, là tài sản vô giá của dân tộc ta. Sở dĩ như vậy là vì tư tưởng của Người không chỉ tiếp thu, kế thừa những giá trị tinh hoa văn hóa, tư tưởng “vĩnh cửu” của loài người, trong đó chủ yếu là chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn đáp ứng nhiều vấn đề của thời đại của sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới.

  • Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
Quảng cáo
Báo lỗi - Góp ý

Về những cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh

09/07/2021

NGUYỄN MẠNH TƯỜNG[*]

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một khoa học, dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và trở thành ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc thống nhất với chủ nghĩa xã hội là nội dung cốt lõi, xuyên suốt tư tưởng và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Nội dung đó được thể hiện không chỉ ở tư tưởng của Người về dân tộc, về quan hệ dân tộc – giai cấp và cách mạng giải phóng dân tộc; về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội; về đại đoàn kết dân tộc; về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về Đảng Cộng sản và xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân mà còn ở tư tưởng đạo đức và văn hoá Hồ Chí Minh.

Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII [tháng 6 - 1991] Đảng Cộng sản Việt Nam đã trịnh trọng ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”[1]. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX [tháng 4 - 2001], một lần nữa, điều đó lại được Đảng ta khẳng định. Sự khẳng định này đã thể hiện bước phát triển mới trong nhận thức và tư duy lý luận, tư duy chính trị của Đảng ta. Chúng ta có thể coi đó là một quyết định có tầm lịch sử quan trọng, đáp ứng được những nhiệm vụ của thực tiễn đổi mới đất nước đang đặt ra, cũng như tình cảm, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân. Và, trên thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống tinh thần của xã hội ta, trở thành một bộ môn khoa học được đưa vào chương trình giảng dạy chính thức, trước hết là trong các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp. Vì thế, việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách một khoa học, có hệ thống để vận dụng và phát triển sáng tạo vào công cuộc đổi mới đất nước hiện nay là rất cần thiết và cấp bách.

Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh bao hàm một hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam và cách mạng giải phóng dân tộc. Do vậy, trong khuôn khổ của bài báo này, chúng tôi không thể làm sáng tỏ tất cả, mà chỉ tập trung luận chứng cho những tiêu chí cần có để khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là một khoa học.

Trước hết, chúng ta có thể khẳng định rằng, cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh làchủ nghĩa Mác–Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác – Lênin mà hạt nhân lý luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin mà Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã tiếp thu và chuyển hoá được những nhân tố tích cực, tiến bộ của truyền thống dân tộc và của nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng của mình. Không có chủ nghĩa Mác – Lênin thì cũng không có tư tưởng Hồ Chí Minh sánh ngang tầm thời đại và có khả năng giải quyết được những nhiệm vụ thực tiễn của cách mạng Việt Nam.

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin từ chủ nghĩa yêu nước được hình thành với một vốn học vấn uyên thâm, một năng lực trí tuệ sắc sảo nhờ phân tích, tổng kết các phong trào yêu nước chống Pháp từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX; với khả năng tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo mà nhờ đó, trong suốt thời gian bôn ba tìm tòi, khảo nghiệm, Người đã hoàn thiện trí tuệ của mình bằng vốn hiểu biết văn hoá, chính trị và thực tiễn cuộc sống phong phú của nhân loại. Khác với các trí thức tư sản phương Tây đến với chủ nghĩa Mác - Lênin chủ yếu như đến với một học thuyết nhằm giải quyết những vấn đề về tư duy hơn là hành động, Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là để tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, tức là từ nhu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc mình và giải phóng tất cả các dân tộc khác. Người tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin theo phương pháp nhận thức mácxít và theo lối “đắc ý vong ngôn” của phương Đông, nghĩa là cốt nắm lấy cái tinh thần, cái cốt yếu, cái bản chất. Người vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp cho cách mạng Việt Nam.

“Tư tưởng Hồ Chí Minhlà một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,...

Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”[2].

“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người”[3]. Chính vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam, đem lại thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa và cách mạng Việt Nam suốt hơn 70 năm qua và đang soi sáng sự nghiệp đổi mới của chúng ta ngày nay.

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là nhằm làm rõ những nội dung chủ yếu của tư tưởng ấy, khẳng định giá trị khoa học, ý nghĩa cách mạng của những luận điểm chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là nghiên cứu cách thức Người kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại trong suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam để trên cơ sở đó, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay. Điều đó cho thấy việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh không thể chỉ là sự mô tả giản đơn các sự kiện, các biến cố lịch sử cụ thể, rời rạc về cuộc đời và hoạt động cách mạng của Người, mà cần phải làm rõ lôgíc tư tưởng về quá trình ấy, nghĩa là nghiên cứu nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển từng nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời chỉ ra những giá trị hiện thời của tư tưởng ấy.

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác - Lênin và phải nắm vững đối tượng nghiên cứu nhằm phản ánh chân thực quá trình hình thành và phát triển tư tưởng ở Người. Trong quá trình nghiên cứu cần phải nắm vững những quan điểm phương pháp luận của Hồ Chí Minh, như lý luận gắn liền với thực tiễn, quan điểm thống nhất biện chứng giữa lập trường dân tộc với lập trường giai cấp, quan điểm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, thống nhất tính đảng với tính khoa học, toàn diện và phát triển. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, còn cần phải kết hợp phương pháp lịch sử với lôgíc, đồng thời sử dụng các phương pháp khác, như phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học, tiếp xúc nhân chứng lịch sử,...

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết cần làm rõ nội dung cốt lõi, chủ yếu, hay vấn đề cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời là mục tiêu của cách mạng Việt Nam cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai -độc lập dân tộc thống nhất với chủ nghĩa xã hội. Đây là vấn đề xuyên suốt sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh, của Đảng ta và của dân tộc Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX cho đến nay. Trong sự thống nhất ấy, học thuyết về chủ nghĩa xã hội được bổ sung thêm cách nhìn từ phía một dân tộc thuộc địa ở phương Đông bị áp bức, bóc lột nhưng tư tưởng về độc lập dân tộc đã vươn lên ngang tầm thời đại, được soi rọi bởi ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và lập trường của giai cấp vô sản. Nếu chủ nghĩa Mác - Lênin lấy mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người làm điểm trung tâm, làm động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì tư tưởng Hồ Chí Minh đặt vấn đề giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người và lấy đó làm nguồn lực của cách mạng Việt Nam trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Người đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc, chống đế quốc thực dân, phong kiến lên hàng đầu và xác định trước hết phải giành cho được độc lập dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Hồ Chí Minh xác định, muốn cách mạng thành công thì dân chúng [công nông] là gốc, đồng thời phải có Đảng vững bền, phải đoàn kết và đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, dân tộc cách mạng phải liên hệ chặt chẽ với thế giới cách mạng. Nói tóm lại, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội và người cách mạng phải có đạo đức cách mạng, có lòng khoan dung, độ lượng, có khí phách kiên cường, không hề run sợ trước sức mạnh của kẻ thù, không sợ phải hy sinh, gian khổ, có niềm tin vững chắc vào sự lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội không chỉ có giá trị đối với cách mạng Việt Nam, mà còn đối với cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa trên thế giới. Độc lập dân tộc thống nhất với chủ nghĩa xã hội đã và đang thấm sâu vào đời sống xã hội; trở thành động lực tinh thần to lớn trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay; đồng thời khẳng định quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn là xu hướng của thời đại hiện nay, thể hiện khát vọng độc lập trong hòa bình và tự do cũng như sức mạnh trường tồn của dân tộc ta và nhiều dân tộc khác trên thế giới.

Chính vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội đã hàm chứa cả một hệ thống tư tưởng về cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng theo con đường cách mạng vô sản.

Dưới đây, chúng tôi xin trình bày một số tư tưởng cơ bản trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.

1. Tư tưởng về vấn đề dân tộc, mối quan hệ dân tộc - giai cấp và cách mạng giải phóng dân tộc.Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, về thực chất, là vấn đề dân tộc thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản và độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Ở đó, có sự kết hợp nhuần nhuyễn lập trường dân tộc với lập trường giai cấp vô sản trong bản chất và tổng thể. Nhưng trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc, lợi ích giai cấp thống nhất với lợi ích dân tộc, nhiệm vụ giải phóng giai cấp gắn liền với nhiệm vụ giải phóng dân tộc và do vậy, lợi ích và nhiệm vụ giải phóng giai cấp phải gắn liền với lợi ích và nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Xét đến cùng và trong toàn cục thì cách đặt vấn đề như vậy về dân tộc cũng là vì giai cấp công nhân. Từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp vô sản là bước nhảy vọt căn bản về nhận thức mà Hồ Chí Minh là người đầu tiên thực hiện trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nhờ giác ngộ giai cấp mà Người hiểu sâu hơn vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đồng thời càng sâu sắc hơn trong giác ngộ dân tộc, xác định và kiên trì lý tưởng phục vụ lợi ích giai cấp công nhân và dân tộc. Với Người, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản, phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, phải xây dựng được khối đoàn kết toàn dân trên nền tảng của liên minh công nông, phải được tiến hành chủ động, sáng tạo và phải được thực hiện bằng con đường bạo lực cách mạng.

2. Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, nhiều nhà tư tưởng đã không nhận thức được tính tất yếu và sự cần thiết của việc thay đổi xã hội. Thế hệ các nhà yêu nước mà hai cụ Phan là tiêu biểu đã nhận thức được điều đó, song cái ý thức hệ tư sản mà các cụ tiếp thu đã trở nên lạc hậu ở phương Tây. Hồ Chí Minh không chỉ nhận thức được tính tất yếu và sự cần thiết của việc thay đổi xã hội, mà còn tiếp thu được hệ tư tưởng vô sản làm nền tảng cho việc xây dựng một xã hội mới của dân, do dân, vì dân và mang một nội dung nhân văn sâu sắc. Đó là xã hội xã hội chủ nghĩa, vì theo Người, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo vững chắc cho một nền độc lập thật sự và đưa lại hạnh phúc, tự do thật sự cho nhân dân.

Hồ Chí Minh còn nêu lên cách hiểu của mình về chủ nghĩa xã hội, về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, một cách hiểu thật giản dị, phổ cập, nhưng lại rất sâu sắc và thiết thực: "Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giầu nước mạnh"; “chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dânvà do nhân dân tự xây dựng lấy", "xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, thay đổi cả thiên nhiên, làm cho xã hội không còn người bóc lột người, không còn đói rét, mọi người đều được ấm no và hạnh phúc"[4]. Người còn nêu ra tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng đối tượng xã hội, như "việc làm cho mọi người", "ốm đau có thuốc chữa", "già yếu thì được nghỉ", "ai cũng được học hành", "những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ",...

Người khẳng định: "Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta”. Do vậy, "không thể làm mau được mà phải làm dần dần"[5]. Thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam, từ những thập niên đầu thế kỷ XX cho đến nay, đã chứng tỏ sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đó là hoàn toàn đúng đắn.

3. Tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc. Từ nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn trong phong trào giải phóng dân tộc và cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”. Tư tưởng về đại đoàn kết của Người đã được phát huy cao độ trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, từ trong nội bộ Đảng đến toàn thể dân tộc. Người chỉ rõ: Nếu chỉ đoàn kết trong Đảng thì chưa đủ, mà Đảng còn phải đoàn kết xung quanh mình toàn thể dân tộc thì cách mạng mới thành công. Người chủ trương mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân mà cốt lõi là liên minh công - nông, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không phân biệt ai, miễn là người Việt Nam yêu nước, chống đế quốc, tán thành xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Người viết: “Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽcác tầng lớp nhân dân..., phải đoàn kết tốtcác đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng tiến bộ..., phải đoàn kếtcác dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc..., phải đoàn kết chặt chẽ giữađồng bào lương và đồng bào tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hoà thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc”[6]. Hồ Chí Minh hiểu rõ đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế có quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ với nhau.

4. Tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và trên lập trường giai cấp vô sản, Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm xây dựng, củng cố liên minh chiến đấu giữa phong trào công nhân chính quốc với phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa nhằm phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Với Người, “Quan sơn muôn dặm một nhà. Bốn phương vô sản đều là anh em”. Mở rộng khối đại đoàn kết quốc tế trên cơ sở của tình hữu ái vô sản, có lý, có tình, Người đã thực hiện quan điểm thêm bầu bạn, bớt kẻ thù. Theo Người, mở rộng khối đoàn kết là tìm thấy những người bạn quốc tế dân chủ và tiến bộ của dân tộc. Có thể nói, tư tưởng về sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính của dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân đã trở thành một trong những đặc điểm mới của tư tưởng Hồ Chí Minh, bổ sung cho tư tưởng về độc lập dân tộc của Người và đưa tư tưởng ấy lên ngang tầm thời đại.

5. Tư tưởng về Đảng Cộng sản Việt Nam. Là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xây dựng và rèn luyện Đảng ta thành một đảng cách mạng chân chính, bộ tham mưu sáng suốt và kiên cường của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Người khẳng định Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu để lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, là Đảng của giai cấp công nhân cũng đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt” và phải được xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người “đầy tớ” thật trung thành của nhân dân và do vậy, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới về chính trị, tư tưởng và tổ chức để xứng đáng là “Đảng của đạo đức và văn minh”.

6. Tư tưởng về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Theo Hồ Chí Minh, nếu vấn đề cơ bản của một cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề cơ bản của một chính quyền là ở chỗ, nó thuộc về ai, phục vụ cho quyền lợi của ai. Chính vì vậy mà trên hành trình đi tìm một mô hình nhà nước tiến bộ cho dân tộc sau khi giành được độc lập, Người đã khảo sát những mô hình nhà nước ở các châu lục trên thế giới, vận dụng sáng tạo học thuyết về nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin và đi đến quyết định lựa chọn mô hình nhà nước dân chủ nhân dân, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trong nhà nước ấy, mọi lợi ích, quyền hạn, lực lượng đều ở nơi dân và có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc.

7. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu và xuyên suốt toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Người không những đã để lại những tác phẩm lý luận về đạo đức, mà còn là hiện thân mẫu mực của những hành vi đạo đức. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, những giá trị của tư tưởng đạo đức phương Đông và phương Tây, đặc biệt quan trọng là những tư tưởng đạo đức của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin. Hồ Chí Minh đã thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam. Nền đạo đức mới mang bản chất của giai cấp công nhân được gọi là đạo đức cách mạng. Đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng, bởi người cách mạng phải có cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp. Đức là gốc, nhưng đức và tài phải kết hợp, phải đi đôi với nhau. Điều đó cho thấy, theo Hồ Chí Minh, đạo đức là vấn đề mang tính toàn diện ở mọi con người, biểu hiện tập trung thông qua ba mối quan hệ: đối với mình, đối với người và đối với công việc. Người thường xuyên nhắc nhở chúng ta cần nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.

8. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Với Hồ Chí Minh, “Trên đời ngàn vạn điều cay đắng; Cay đắng chi bằng mất tự do”. Từ nhận thức đó, Người quyết tâm ra đi tìm một hệ tư tưởng mới đủ sức giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội Việt Nam. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ sự kế thừa một cách sáng tạo những giá trị nhân văn truyền thống, những giá trị nhân văn trong lịch sử nhân loại, đặc biệt là tinh thần khoa học, cách mạng của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản ở các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin. Với lòng yêu thương vô hạn và sự cảm thông sâu sắc đối với mọi nỗi đau khổ của con người, Người kiên quyết đấu tranh, tố cáo những tội ác gây ra cho con người và đặt niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh, phẩm giá, vào khát vọng vươn tới Chân, Thiện, Mỹ của con người. Theo Hồ Chí Minh, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Trên cơ sở của niềm tin mãnh liệt vào con người, Hồ Chí Minh nguyện phấn đấu suốt đời cho hạnh phúc của con người trong một xã hội công bằng và coi chiến lược trồng người là chiến lược hàng đầu của cách mạng.

9. Tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh. Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra những phương tiện và công cụ cho sinh hoạt hàng ngày nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống của họ. “Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá”[7]. Chính vì vậy, theo Người, văn hoá có vị trí, vai trò, tính chất và chức năng quan trọng, to lớn trong đời sống xã hội; văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi, phải làm cho ai cũng có lý tưởng độc lập, tự chủ và có ý thức đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ. Người chỉ rõ ba lĩnh vực chính của văn hoá là văn hoá giáo dục, văn hoá văn nghệ và văn hoá đời sống. Mỗi lĩnh vực của văn hoá lại có vị trí, chức năng và nhiệm vụ riêng, song việc cải tạo, sửa đổi cái cũ và việc xây dựng, sáng tạo, phát minh cái mới luôn là những vấn đề bức thiết, vấn đề thời sự của cuộc sống.

Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin ở Việt Nam. Chính vì vậy, Đảng ta khẳng định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đồng thời là mục tiêu của cách mạng Việt Nam, - đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo. Bài học này đòi hỏi phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan, phải tìm ra những hình thức, bước đi, cách làm phù hợp, phải luôn luôn biết gắn lý luận với thực tiễn, từ tổng kết thực tiễn mà bổ sung, làm phong phú thêm lý luận.

[*] Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.127.

[2]Đảng Cộng sản Việt Nam.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.83-84.

[3]Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh.Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, .2003, tr.19 .

[4]Hồ Chí Minh.Toàn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, t.8, tr.226; t.10, tr.556; t.9, tr. 447.

[5] Hồ Chí Minh.Sđd.,t.8, tr.493, 226.

[6] Hồ Chí Minh.Sđd.,t.10, tr.605 – 606.

[7]Hồ Chí Minh.Sđd.,t.3, tr. 431

Nguồn:Tạp chí Triết học, số 5 [168] - 2005

In bài viết
Gửi Email
Các tin đã đưa ngày:

Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc và giá trị thời đại

Ngày đăng: 27/08/2020 03:07
Mặc định Cỡ chữ
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới đã cống hiến trọn cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam. Sự nghiệp cách mạng phong phú, sôi động của Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta nhiều “Di sản” quý báu, trong đó, những sáng tạo lý luận của Người về cách mạng giải phóng dân tộc là một dấu ấn nổi bật, góp phần tạo nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đồng thời có giá trị thời đại sâu sắc.

1. Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc

Thứ nhất, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản

Yêu nước và kiên quyết chống giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền và nền độc lập là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Phát huy truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, tận mắt chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, nhân dân đói khổ lầm than, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc. Mang trong mình khát vọng giải phóng dân tộc, qua nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm ra con đường cách mạng đúng đắn - con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[1]. Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga [1917], bởi theo Người: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”[2]. Con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản, là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để. Cuộc cách mạng đó không chỉ giải phóng giai cấp, mà gắn liền với nó là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội.

Trong quá trình vận dụng lý luận cách mạng vô sản vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã kiên trì khắc phục những trở ngại của khuynh hướng giáo điều, nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp trong nửa sau những năm 20 và nửa đầu những năm 30 của thế kỷ XX, làm cho lý luận cách mạng giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản có sức sống mạnh mẽ, thâm nhập trong đông đảo quần chúng nhân dân. Đi theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh sớm xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[3]. Sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng CNXH. Bên cạnh đó, Người dành nhiều tâm trí vào sự nghiệp cách mạng XHCN và xây dựng CNXH ở Việt Nam, hình thành nên những quan điểm hết sức cơ bản về CNXH và con đường đi lên CNXH từ một nước thuộc địa, với những tàn tích phong kiến nặng nề; xác định những đặc trưng bản chất của CNXH, mục tiêu và bước đi để đạt tới CNXH. Đó là một quá trình cải biến cách mạng lâu dài, gian khổ, phải trải qua nhiều chặng đường khác nhau, tất cả vì sự nghiệp giải phóng con người, làm cho con người phát triển toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.

Cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, tức là độc lập dân tộc đi tới CNXH. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết, là tiền đề đi tới CNXH. Không giành được độc lập dân tộc sẽ không có gì hết. Độc lập dân tộc thể hiện ở chỗ giành và giữ chính quyền dân chủ nhân dân, chuẩn bị tiền đề đi lên CNXH. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. CNXH là hạnh phúc, tự do. Vì vậy, phải xây dựng CNXH như là sự phát triển tất yếu của độc lập dân tộc, để bảo vệ độc lập dân tộc và tạo ra bước phát triển mới với một trình độ cao hơn của toàn bộ tiến trình cách mạng. Đây chính là sự phát triển sáng tạo luận điểm của V.I.Lênin về cách mạng không ngừng - cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng XHCN, giữa hai giai đoạn đó không có một bức tường thành nào ngăn cách cả.

Thực tiễn đó cho thấy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách mạng vô sản là một trong những sáng tạo nổi bật về mặt lý luận của Hồ Chí Minh. Chính theo con đường cách mạng vô sản, nhân dân Việt Nam đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 “long trời lở đất”, dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [2-9-1945]. Trong Tuyên ngôn độc lập đọc trước quốc dân đồng bào vào ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”[4]. Với Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã tuyên bố với toàn thế giới về quyền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, toàn vẹn lãnh thổ và quyền dân tộc tự quyết của dân tộc Việt Nam. Trong đó, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ vừa là tiền đề, vừa là điều kiện tiên quyết của chế độ dân chủ, cho việc xác lập và bảo vệ quyền con người.

Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do Đảng và Hồ Chí Minh lãnh đạo đã mở ra một thời đại mới cho dân tộc Việt Nam - thời đại độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Kiên trì với con đường đã lựa chọn, trải qua 30 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “không có gì quý hơn độc lập, tự do”; trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của thực dân, đế quốc, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong cuộc đấu tranh trường kỳ này, tất cả người dân Việt Nam đã kiên cường đấu tranh cho độc lập dân tộc và tự do cho nhân dân. Quyền vốn dĩ tự nhiên đó của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam được cộng đồng quốc tế đón nhận như là một trong những tư tưởng lớn của thời đại.

Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo

Đây là một sáng tạo của Hồ Chí Minh về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, “Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công...”[5]. Đảng đó phải được xây dựng theo nguyên tắc đảng kiểu mới của V.I.Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng Cộng sản là: Xác định mục tiêu của cách mạng, xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc; thông qua cương lĩnh, tổ chức vận động, tập hợp các lực lượng cách mạng, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Đối với cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Cương lĩnh Chính trị đầu tiên được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp”[6]. Điều đáng chú ý là, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng không chỉ là của riêng giai cấp công nhân, mà của toàn dân tộc. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng [tháng 02/1951], Hồ Chí Minh phân tích: “Trong giai đoạn hiện nay, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”[7]. Năm 1961, khi nhân dân miền Bắc đang thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”[8].

Đó là một Đảng đạo đức và văn minh, được võ trang bằng lý luận Mác - Lênin; có bản lĩnh chính trị vững vàng; đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức trong sáng, năng lực trí tuệ dồi dào, biết giải quyết mọi vấn đề xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và theo kịp bước tiến của thời đại. Đảng đó phải xây dựng được một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, vững chắc, lâu dài, chân thành, đoàn kết; trong đó, lực lượng của Đảng là cả dân tộc, mọi con dân nước Việt, con Lạc cháu Hồng. Đảng đó còn biết tập hợp các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa thực dân, vì mục tiêu chung của nhân loại tiến bộ là: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Thực tiễn phong phú cách mạng Việt Nam chứng minh rằng, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, chính trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã được tôi luyện, thử thách và không ngừng trưởng thành, dày dạn kinh nghiệm để ngày càng xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân; qua đó, khẳng định một chân lý, “ở Việt Nam không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc đến bến bờ vinh quang, hạnh phúc”[9].

Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên cơ sở liên minh công nông

Sinh thời, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông làm nòng cốt”... Trong đó, “thực hiện cho được liên minh công nông vì đó là sự bảo đảm chắc chắn nhất những thắng lợi của cách mạng”[10].

Từ thực tiễn Việt Nam, với tuyệt đại đa số dân số là nông dân, Hồ Chí Minh cho rằng, nông dân là những người chịu nhiều tầng áp bức, bị bần cùng hóa nên họ luôn có ý thức phản kháng, sẵn sàng tham gia cách mạng. Do đó, cách mạng giải phóng dân tộc phải có sự tham gia của giai cấp nông dân và là sự nghiệp của toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Nông dân là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân. Muốn kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập, thống nhất thật sự, ắt phải dựa vào lực lượng của nông dân. Đồng bào nông dân sẵn có lực lượng to lớn, sẵn có lòng nồng nàn yêu nước, sẵn có chí khí kiên quyết đấu tranh và hy sinh. Do vậy, vấn đề giải phóng dân tộc ở Việt Nam, thực chất là vấn đề nông dân. Nông dân vừa là động lực, vừa là lực lượng đông đảo, nòng cốt, và cũng là đối tượng vận động của cách mạng.

Đánh giá cao vai trò, sứ mệnh của giai cấp nông dân, nhưng Hồ Chí Minh luôn khẳng định, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng và Đảng phải lãnh đạo xây dựng khối liên minh công - nông làm nòng cốt cho Mặt trận Dân tộc thống nhất. Hồ Chí Minh chủ trương vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam, những người dân mất nước, đang phải chịu thân phận nô lệ, tham gia vào Mặt trận Dân tộc thống nhất, nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Đây là luận điểm rất mới, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc. Đó là sự bổ sung kịp thời vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Có thể nói, đối với cách mạng Việt Nam, luận điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công - nông đã được vận dụng một cách chủ động, sáng tạo trong tiến trình tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc.

Thứ tư, cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang; thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn

Vượt lên tư tưởng của các nhà lãnh đạo cách mạng tiền bối, Hồ Chí Minh xác định phương pháp đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang; thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.

Trên cơ sở nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc bản chất của chế độ thực dân: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”[11],“lũ giặc cướp nước, chết thì chết, nết không chừa. Càng gần thất bại thì chúng càng hung ác”[12]. Người khẳng định: “Độc lập tự do không thể cầu xin mà có được”. Vì vậy, để thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ CNXH, tất yếu phải “Dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”[13].

Quan điểm bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh không hề đối lập với tinh thần yêu chuộng hòa bình và chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc Việt Nam mà là sự tiếp nối truyền thống nhân nghĩa của cha ông ta. Đối với Hồ Chí Minh, trong cuộc đấu tranh chính nghĩa để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, việc sử dụng bạo lực cũng nhằm mục đích hòa bình: “Dụng việc binh là việc nhân nghĩa, muốn cứu dân, cứu nước”[14]. Theo Người, hòa bình phải là nền hòa bình thật sự, gắn liền với độc lập, chủ quyền của Tổ quốc và tự do, dân chủ của nhân dân. Nếu mục tiêu đó không được đáp ứng, phương thức tiến hành chiến tranh tất yếu là bạo lực cách mạng. Đó chính là nghệ thuật khéo léo dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng của Người.

Tuy đề cao vai trò của bạo lực cách mạng nhưng Hồ Chí Minh không tuyệt đối hóa vai trò của bạo lực, của đấu tranh vũ trang trong chiến tranh cách mạng. Với Người, đấu tranh vũ trang chỉ là một trong những phương pháp để thực hiện mục tiêu chính trị của cách mạng. Với tinh thần ấy, sau khi về nước chuẩn bị giành chính quyền, tháng 12-1944, trên cơ sở nghiên cứu kỹ tình hình cách mạng trong nước và trên thế giới, Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập đội “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”. Người căn dặn: “Chính trị trọng hơn quân sự”[15], “tuyên truyền trọng hơn tác chiến”, “người trước, súng sau”. Chỉ thị nêu rõ nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, phương châm xây dựng ba thứ quân, phương thức hoạt động là kết hợp quân sự với chính trị.

Trong quá trình lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, Hồ Chí Minh và Đảng đã chỉ đạo tích cực xây dựng và phát triển lực lượng, để khi có thời cơ sẽ phát động khởi nghĩa vũ trang. Trước hết là xây dựng các căn cứ địa, đồng thời mở các lớp đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức chính trị của quần chúng... Với sự chủ động, tích cực chuẩn bị đón chờ thời cơ khởi nghĩa, tháng Tám năm 1945, khi thời cơ đến, lệnh “Tổng khởi nghĩa” được ban ra, chỉ trong chưa đầy nửa tháng, cả nước đã đứng lên giành chính quyền về tay nhân dân.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, kế thừa và phát huy nghệ thuật lãnh đạo Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam đã tập trung lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh, với ba thứ quân và không ngừng nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật của quân đội để đánh bại các chiến lược quân sự của kẻ thù; đồng thời, kết hợp với xây dựng lực lượng chính trị mạnh mẽ của quần chúng để khi thời cơ đến tiến hành tổng tiến công, giành thắng lợi quyết định trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.

2. Giá trị thời đại

Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc phản ánh nguyện vọng được sống trong độc lập, tự do và công bằng, bình đẳng của không chỉ dân tộc Việt Nam mà còn là ý chí, nguyện vọng của mọi dân tộc bị áp bức, bóc lột trên thế giới, như Hồ Chí Minh đã khẳng định: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”[16]. Có thể nói, giải phóng dân tộc là nguyện vọng cháy bỏng hơn bất cứ yêu cầu nào khác. Nó là điều kiện tiên quyết cho mọi quyền tự do, dân chủ của con người.

Điều đặc biệt cần lưu ý, sáng tạo của Hồ Chí Minh không chỉ là người xây dựng cơ sở lý luận cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc của Việt Nam mà còn là người tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Trong quá trình tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã thể hiện trách nhiệm của người đứng đầu. Người tổ chức vừa kháng chiến, vừa kiến quốc với tinh thần “các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Kháng chiến đi đôi với kiến quốc, đấu tranh đi đôi với xây dựng, cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là nét độc đáo của cách mạng Việt Nam mang dấu ấn Hồ Chí Minh. Người xác định, kháng chiến trường kỳ gian khổ, phức tạp, khó khăn, nhưng nhất định thắng lợi. Lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc vốn đã sáng tạo nhưng lại ngày càng sáng tạo hơn vì đã đi vào thực tiễn, được làm phong phú bởi thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cũng như thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Việt Nam.

Thực tiễn lãnh đạo toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập và kháng chiến chống chiến tranh xâm lược đã làm phong phú thêm lý luận của Người về cách mạng và chiến tranh giải phóng. Từ đó, có thể khẳng định, những cống hiến sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, cả thực tiễn và lý luận đã bổ sung cho kho tàng lý luận cách mạng thế giới, kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như truyền thống dựng nước và giữ nước đầy tự hào của dân tộc Việt Nam.

Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc mang tính thời đại thể hiện đậm nét ở chỗ, nó đã tác động sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Nếu như thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã thức tỉnh các dân tộc trên thế giới về quyền tự do, độc lập của mỗi dân tộc, thì thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm “chấn động địa cầu”, thức tỉnh các dân tộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ - Latinh vùng lên đánh đuổi thực dân, đế quốc, giành độc lập dân tộc.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã kiên định con đường cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn là: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kiên trì mục tiêu: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Hiện nay, tư tưởng của Người vẫn soi sáng con đường đi lên của cách mạng Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vấn đề quan trọng nhất được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.

Để đạt được điều đó, hơn lúc nào hết, chúng ta cần phải nắm chắc hạt nhân tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng con người, nắm vững phương thức giải quyết mối quan hệ dân tộc - con người trên cơ sở nhận thức chính xác đặc điểm của dân tộc và sự vận động, phát triển của thời đại. Chỉ có như vậy, chúng ta mới thành công trong nhiệm vụ đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đó cũng là một trong những điều kiện quan trọng nhất bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hiện tại và tương lai.

-------------------------------------

Ghi chú:

[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.30.

[2], [5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.304, 289.

[3], [6], [15] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.1, 3, 539.

[4], [16] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.4, 1.

[7], [12] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.41, 254.

[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.275.

[9] Diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Lễ kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam [3/2/1930-3/2/2020].

[10], [13] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.391, 391.

[11] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.114.

[14] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.286.

PGS, TS Nguyễn Danh Tiên - Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Theo: lyluanchinhtri.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Video liên quan

Chủ Đề