Cách nắn trật khớp cổ chân

Chấn thương khớp cổ chân là loại chấn thương rất dễ xảy ra do bất cẩn trong quá trình đi lại. Dưới đây là 10 điều bạn cần biết để có thể cấp cứu đúng cách.

Khớp cổ chân tạo bởi 3 xương tibia, fibula, talus, và được bao quanh bởi một hệ thống các dây chằng [ligaments]. Các dây chằng có nhiệm vụ giúp cổ chân hoạt động trong tư thế cân bằng, vững chắc.

Chấn thương khớp cổ chân là loại chấn thương rất dễ xảy ra do bất cẩn trong quá trình đi lại. Dưới đây là 10 điều bạn cần biết để có thể cấp cứu đúng cách.

Chấn thương khớp cổ chân là loại chấn thương thường gặp

Nếu các dây chằng quanh khớp cổ chân bị rách, cổ chân sẽ kém vững, bàn chân sẽ lệch ra ngoài hoặc vào trong, ít hay nhiều tùy vào mức độ tổn thương của dây chằng.

Chấn thương xảy ra nặng hơn, các xương tạo nên khớp cổ chân còn có thể bị gãy.

Cho dù cơ chế chấn thương đơn giản như đi vấp nhẹ trẹo cổ chân, bàn chân nhưng chớ nên xem thường. Bởi vì lực như thế cũng đủ làm bạn bị gãy xương mắt cá, toác khớp, đòi hỏi phải phẫu thuật chỉnh sửa lại. 

Chấn thương khớp cổ chân có thể biến chứng khó lường

Trong các trường hợp này, đa số nạn nhân thường cho rằng bị bong gân nhẹ nên hay tự điều trị theo các phương thức truyền thống như sửa trật đả, đắp lá, bó thuốc rượu v.v…Ðiều này thường gây ra nhiều biến chứng, hơn nữa nếu để muộn sẽ khó điều trị hơn rất nhiều.

Biến chứng khó chịu nhất của bó thuốc là gây viêm da. Vì ngay dưới da cổ chân là xương và máu tụ do chấn thương, do đó rất dễ phát sinh nhiễm trùng lan rộng vào trong khớp, trong xương gãy và mô lành xung quanh.

Một số ca bó lá thuốc không rửa sạch có thể gây nhiễm trùng hoại thư sinh hơi rất nguy hiểm, làm thối cả chân.

Chấn thương vùng cổ chân đặc biệt dễ sưng hơn trên gối. Ngay dưới da là xương và bao khớp. Ðây là loại tổ chức có nhiều mạch máu nuôi. 

Vì vậy vùng này dễ chảy máu nhiều hơn. Quanh cổ chân còn có rất nhiều tĩnh mạch nông lớn, dễ gây hiện tượng sưng phù do ứ trệ máu trở về tim.

Ðau ít và không kéo dài, thường là cảm giác thốn. Ngay cả khi bị gãy xương, đau chỉ xuất hiện trong tuần lễ đầu. Ðó cũng là lý do khiến người ta ít chú ý đến tổn thương.

Sưng kéo dài thường là nguyên nhân chính khiến bệnh nhân đến bệnh viện kiểm tra lại tổn thương. Ða số bệnh nhân lo lắng không hiểu tại sao hết đau rồi nhưng vẫn còn sưng kéo dài nhiều tuần sau chấn thương.

Giới hạn cử động cổ chân như gấp lòng hay gấp lưng bàn chân sẽ làm người bệnh có dáng đi khập khiễng. Nếu biến chứng này xảy ra sau chấn thương, nhiều khả năng có tổn thương xương khớp ở cổ chân.

Chấn thương khớp cổ chân cần được điều trị đúng cách

Ðau quanh mắt cá kèm theo sưng nhẹ có thể là dấu hiệu viêm khớp cổ chân sau chấn thương. Thường là do viêm hoạt mạc khớp dưới sên [hội chứng sinus-tarsi] sau khi bị tổn thương các dây chằng cổ chân ở đây. Tình trạng này khiến người bệnh khó chịu vì đã uống thuốc kháng viêm dài ngày mà không hết hẳn.

Nguyên tắc xử trí ban đầu: R – I – C – E

  • R [rest]: Nằm nghỉ, hạn chế cử động cổ chân, có thể tiến hành gắn nẹp bảo vệ.
  • I [ice]: Chườm lạnh quanh cổ chân bằng túi nylon đựng nước đá.
  • C [compression]: Dùng băng thun băng ép vừa phải từ bàn chân lên đến gối để hạn chế sự sưng do ứ trệ máu tĩnh mạch.
  • E [elevation]: Nằm kê chân cao giúp sự lưu thông máu tĩnh mạch dễ dàng hơn. Chú ý không nên kê quá cao, thường khoảng 10-20cm là vừa. Cao quá sẽ làm tê chân do giảm lượng máu động mạch xuống bàn chân.

Kiểm tra cổ chân bằng phim X-quang để sớm phát hiện gãy xương hay trật khớp như gãy mắt cá, gãy xương sên, trật khớp cổ chân, gãy trần chày, gãy xương gót.

Nếu không gãy xương, đa số là tổn thương dây chằng cổ chân và bao khớp, còn gọi là bong gân. Cần cố định tư thế cổ chân trong một thời gian để các dây chằng lành tốt.

Thường là từ 3-6 tuần. Sau đó sẽ tập cổ chân trong khoảng vài tuần nữa mới có thể phục hồi như trước chấn thương.

Một số bệnh nhân nếu sốt ruột tìm đến các phương cách điều trị khác có thể gây ra nhiều biến chứng hơn. Lúc đó thời gian điều trị cũng sẽ kéo dài gấp nhiều lần.

Những thông tin cung cấp trong bài viết của Bệnh viện Đa khoa Hồng Ngọc chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa.

Theo dõi fanpage của Bệnh viện Đa khoa Hồng Ngọc để biết thêm thông tin bổ ích khác: //www.facebook.com/BenhvienHongNgoc/

  • Đánh giá mạch và thần kinh

  • Kiểm tra vết thương hở, biến dạng, sưng , tụ máu, giảm vận động chi hoặc cử động bất thường

  • Sờ kiểm tra co cứng, lạo xạo, và các tổn thương của xương và gân.

  • Kiểm tra các khớp ở trên và dưới vùng bị thương

  • Đôi khi trong bán trật khớp, kiểm tra mất vững khớp bằng các test.

Nếu co cơ và đau làm hạn chế khám thực thể [đặc biệt đối với test đánh giá mất vững], đánh giá sẽ dễ dàng hơn sau khi bệnh nhân được dùng thuốc giảm đau toàn thân hoặc gây tê tại chỗ. Hoặc tổn thương có thể được bất động cho đến khi cơ giảm co, thường là trong vài ngày, và sau đó bệnh nhân có thể được khám xét lại.

Một số phát hiện nhất định có thể là dấu hiệu cho thấy trật khớp hoặc một chấn thương xương khớp khác.

Nếu một vết thương gần khớp trật, trật khớp được coi như trật hở.

Biến dạng có thể là dấu hiệu trật khớp hoặc bán trật khớp [di lệch của các đầu xương trong khớp], nhưng cũng có thể là dấu hiệu gãy xương.

Sưng thường là dấu hiệu tổn thương hệ vận động nhưng có thể cần vài giờ để tiến triển.

Đau chói đi kèm với gần như tất cả các tổn thương hệ vận động, đối với một số bệnh nhân, sờ nắn xung quanh khu vực bị thương đều gây khó chịu cho bệnh nhân.

Mất vững khớp nhiều cho thấy trật khớp hoặc đứt dây chằng một cách nghiêm trọng.

Nếu co cơ trầm trọng mặc dù đã sử dụng thuốc giảm đau hoặc thuốc mê, nên khám lại vài ngày sau đó, khi co cơ đã giảm xuống.

Nếu khám thực thể thấy bình thường ở một khớp mà bệnh nhân có xác định là đau, nguyên nhân có thể biểu hiện là đau. Chẳng hạn, bệnh nhân gãy trượt sụn chỏm xương đùi [hoặc ít hơn là gãy cổ xương đùi] có thể cảm thấy đau ở đầu gối.

Video liên quan

Chủ Đề