Các quy định của pháp luật Việt Nam về các phương pháp giải quyết xung đột pháp luật

Phương pháp là cách thức tiến hành để có hiệu quả cao. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật là cách thức giải quyết vấn đề khi có tình huống hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ tư pháp quốc tế. Để giải quyết thực tế hết sức phức tạp này, mỗi phương pháp cần thiết phải có các công cụ nhất định, và công cụ của luật pháp chính là các quy phạm pháp luật. Như vậy có nghĩa là các phương pháp điều chỉnh khác nhau sẽ sử dụng các loại quy phạm pháp luật không giống nhau.

Các quy định của pháp luật Việt Nam về các phương pháp giải quyết xung đột pháp luật

Căn cứ vào các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn thì xung đột pháp luật sẽ được giải quyết bằng các phương pháp sau:

1. Phương pháp thực chất – xây dựng và áp dụng các quy phạm thực chất

Phương pháp thực chất phương pháp dùng quy phạm thực chất, trực tiếp điều chỉnh quan hệ không cần qua bất một khâu trung gian nào.

Như đã trình bày Chương 1, quy phạm thực chất loại quy phạm pháp luật quy định cụ thể cách thức ứng xử của các chủ thể tham gia quan hệ, hay quy phạm này quy định quyền nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ, trực tiếp điều chỉnh quan hệ, trực tiếp tác động tới quan hệ, quy phạm này chính câu trả lời cho câu hỏi quan hệ này được giải quyết cụ thể như thế nào. Khi quy phạm thực chất thì quan hệ thể được giải quyết không phải dẫn chiếu đến pháp luật của bất một nước nào nên thể giải quyết nhanh chóng, kịp thời lại đơn giản hơn, tránh được những khó khăn khi xử tranh chấp. vậy, quy phạm thực chất được coi loại quy phạm dễ áp dụng phương pháp thực chất phương pháp đơn giản nhất, nhanh chóng nhất trong việc giải quyết xung đột pháp luật.

Quy phạm thực chất hai loại:

Quy phạm thực chất thống nhất loại quy phạm thực chất nằm trong các điều ước quốc tế.

Xuất phát từ việc các quan hệ tư pháp quốc tế là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài, nên các quan hệ này luôn sự liên quan đến hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. bản thân nội tại các hệ thống pháp luật luôn tồn tại sẵn các yếu tố tạo nên sự khác biệt. vậy, để giải quyết các quan hệ phức tạp này bằng một loại quy phạm quy định quyền nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia quan hệ, vẫn đảm bảo sự chấp nhận được của hai/nhiều hệ thống pháp luật khác nhau thì gần như tất yếu các quy phạm thực chất này phải kết quả của quá trình đàm phán, thương lượng giữa các quốc gia, đó chính các điều ước quốc tế. thể nói các quy phạm thực chất thống nhất chủ yếu tồn tại trong các điều ước quốc tế.

dụ: Các quy định trong Công ước Paris 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Điều 4ter: Tác giả sáng chế có quyền được nêu tên với danh nghĩa là tác gisáng chế trong patent); Công ước Berne 1886 về bảo hộ quyền tác giả (khoản 1 Điều 7: Thời hạn bảo hộ theo Công tước này ssuốt cuộc đời của tác giả năm mươi năm sau khi tác giả chết); Công ước Vienna 1980 của Liên hợp quốc về mua bán hàng hoá quốc tế (Điều 11: Hợp đồng mua bán không cần phải được kết hoặc xác nhận bằng văn bản hay phải tuân thủ một u cầu nào khác vhình thức của hợp đồng. Hợp đồng có thể được chứng minh bằng mọi cách, kcả những lời khai của nhân chứng)...

Các quy định của pháp luật Việt Nam về các phương pháp giải quyết xung đột pháp luật
Hình minh họa. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật

Khi các quy phạm thực chất thống nhất thì các quan giải quyết cũng như các bên tham gia quan hệ thể căn cứ vào đó để giải quyết vấn đề một cách trực tiếp, không cần phải xem xét đến các phương pháp giải quyết khác. vậy, quy phạm thực chất thống nhất được coi sự lựa chọn đầu tiên cho việc giải quyết các quan hệ pháp quốc tế, chỉ khi không loại quy phạm này thì các quy phạm khác của pháp quốc tế mới được xem xét đến.

– Quy phạm thực chất thông thường là loại quy phạm thực chất nằm trong hệ thống pháp luật quốc gia.

Quy phạm này đặc điểm giống với quy phạm thực chất thống nhất đã trình bày trên, đó cũng quy định quyền nghĩa vụ của các bên trong quan hệ, cũng điều chỉnh trực tiếp quan hệ pháp quốc tế. Chỉ một điểm khác biệt giữa quy phạm thực chất thống nhất quy phạm thực chất thông thường quy phạm thực chất thống nhất nằm trong các điều ước quốc tế, còn quy phạm thực cht thông thường nằm trong các văn bản pháp luật của quốc gia.

Chính sự khác biệt này những quan điểm cho rằng đây không phải quy phạm của pháp quốc tế, song nếu căn cứ vào bản chất của quy phạm, được xây dựng để trực tiếp điều chỉnh các quan hệ về dân sự theo nghĩa rộng yếu tố nước ngoài thì cần thiết phải coi đây một loại quy phạm của ngành luật này. Ở Việt Nam, thể tìm thấy các quy phạm loại này trong Luật đầu 2014, Luật nhà 2014, Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, trú của người nước ngoài tại Việt Nam 2014

Còn một vấn đề nữa giữa quy phạm thực chất thông thường, một loại quy phạm của pháp quốc tế, với quy phạm của một ngành luật trong nước khác biệt? Bởi cả hai loại quy phạm này đều được ban hành bởi quan thẩm quyền của quốc gia, cả hai loại quy phạm này đều quy định quyền nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ. ràng các quy phạm này nhiều điểm giống nhau, thậm chí rất khó phân biệt nếu chúng cùng nằm trong một văn bản. Nhưng điểm khác biệt quan trọng nhất, quyết đnh quy phạm nào quy phạm thực chất thông thường của pháp quốc tế, quy phạm nào quy phạm của ngành luật trong nước của quốc gia, chính chỗ các quy phạm đó điều chỉnh loại quan hệ nào. Quy phạm của pháp quốc tế trực tiếp điều chỉnh quan hệ dân sự theo nghĩa rộng yếu tố nước ngoài trong khi đó các quy phạm của ngành luật trong nước (như các ngành luật dân sự, lao động, thương mại...) không bao giờ trực tiếp điều chỉnh các quan hệ pháp quốc tế được, chúng chỉ điều chỉnh các quan hệ quốc nội. Trong trường hợp các quy phạm này được sử dụng để điều chỉnh quan hệ pháp quốc tế thì sự điều chỉnh chỉ thể là gián tiếp không phải điều chỉnh trực tiếp như quy phạm của pháp quốc tế, bởi chúng được áp dụng theo sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột.

Phương pháp thực chất được đánh giá phương pháp hiệu quả nhất để giải quyết xung đột pháp luật, nhưng không phải phương pháp duy nhất. Do phương pháp này sử dụng các quy phạm thực chất phần lớn là các quy phạm thực chất thống nhất, như đã trình bày trên đó các quy phạm tồn tại trong các điều ước quốc tế, không phải lĩnh vực nào cũng điều ước quốc tế, đôi khi trong quá trình đàm phán, thương lượng để xây dựng điều ước quốc tế thì để thống nhất được các quy phạm thực chất cũng rất khó khăn, nhiều trường hợp đã không thực hiện được. vậy, bên cạnh phương pháp thực chất, để giải quyết xung đột pháp luật, pháp quốc tế còn sử dụng một phương pháp nữa đó phương pháp xung đột.

2. Phương pháp xung đột – xây dựng và áp dụng các quy phạm xung đột

Nói một cách phổ quát, phương pháp xung đột phương pháp sử dụng các quy phạm xung đột để giải quyết xung đột pháp luật.

Khi không có quy phạm thực chất thống nhất, để điều chỉnh quan hệ, các cơ quan có thẩm quyền phải tìm đến hệ thống các quy phạm khác – các quy phạm xung đột. Đây là các quy phạm pháp luật đặc biệt, nó không quy định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ, không quy định các hình thức và biện pháp chế tài có thể được áp dụng đối với bên vi phạm. Nhiệm vụ của quy phạm xung đột chỉ xác định hệ thống pháp luật của quốc gia nào sẽ được áp dụng để điều chỉnh quan hệ, còn bản thân quan hệ lại chưa được giải quyết, muốn giải quyết vấn đề thì quan thẩm quyền cần căn cứ vào quy phạm xung đột, áp dụng hệ thống pháp luật quy phạm xung đột đã dẫn chiếu tới. Từ đó sẽ căn cứ vào các quy định thực định trong hệ thống pháp luật được dẫn chiếu tới để giải quyết vấn đề.

dụ: Điều 677 Bộ luật dân sự 2015 quy định: Việc phân loại tài sản động sản, bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sn, đây một quy phạm xung đột, quy phạm này xác đnh luật áp dụng để định danh tài sản luật nơi tài sản, còn tài sản cthể trong một tình huống cụ thể đang xem xét động sản hay bất động sản thì quy phạm này không làm được.

Phương pháp xung đột phương pháp điều chỉnh gián tiếp bởi phương pháp này chỉ lựa chọn hệ thống pháp luật nào sẽ được áp dụng chứ không giải pháp nội dung cụ thể để giải quyết trọn vẹn vấn đề. Vấn đề chỉ thực sự được giải quyết triệt để khi quan thẩm quyền theo sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột, tìm ra được các quy định thực định của pháp luật được dẫn chiếu đến, dùng các quy định đó để điều chỉnh quan hệ.

Tuy nhiên, có một thực tế là có thể có trường hợp (không phổ biến) phương pháp xung đột được sử dụng để giải quyết các quan hệ không có xung đột pháp luật nhưng thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế (ví dụ như trong các quan hệ sở hữu trí tuệ có yếu tố nước ngoài). Cụ thể, Điều 679 Bộ luật dân sự 2015 là một quy phạm xung đột, quy phạm này quy định “Quyền sở hữu trí tuệ được xác định theo pháp luật của nước nơi đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được yêu cầu bảo hộ”. Việc xây dựng một quy phạm xung đột trong lĩnh vực này chỉ có ý nghĩa là Nhà nước Việt Nam muốn quy phạm hoá nguyên tắc trên mà thôi, tức là chỉ áp dụng luật của nước nơi đối tượng có yêu cầu bảo hộ mà không áp dụng luật nước ngoài, điều đó phù hợp với pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia khác.

Hơn nữa, sự tồn tại của quy phạm xung đột không phải minh chứng cho việc xung đột pháp luật, đấy công cụ của một trong hai phương pháp điều chỉnh các quan hệ pháp quốc tế, bao gồm cả các quan hệ lẫn các quan hệ không xung đột pháp luật.

Phương pháp xung đột phương pháp phổ biến đặc thù của pháp quốc tế được hầu hết các quốc gia áp dụng. So với phương pháp thực chất thì phương pháp xung đột phức tạp hơn nhiều. Để hiểu rõ vận dụng đúng phương pháp xung đột nhất thiết phải nắm được các vấn đề bản liên quan đến quy phạm xung đột quy phạm đặc thù của pháp quốc tế.

3. Áp dụng tập quán quốc tế hoặc “pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội tương tự”

Hai phương pháp thực chất xung đột nêu trên hai phương pháp điều chỉnh bản của pháp quốc tế. Tuy nhiên thực tiễn cùng phong phú đa dạng, nên cũng trường hợp không có cả quy phạm thực chất lẫn quy phạm xung đột để điều chỉnh quan hệ. Trường hợp này, để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của các đường sự, củng cố thúc đẩy giao lưu giữa các nước thì quan thẩm quyền của quốc gia cần tìm một giải pháp khác để giải quyết vấn đề. Cách thức thường được áp dụng sử dụng tập quán quốc tế hoặc pháp luật điều chỉnh các quan hệ hội tương tựtrên sở phợp với nguyên tắc bản của pháp luật quốc gia mình cũng như đường lối, chính sách đối ngoại của nhà nước.

Tại Việt Nam, việc áp dụng tập quán được quy định trong Bộ luật dân sự 2015. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 5 Bộ luật quy định: Trường hợp các bên không thoả thuận pháp luật không quy định thì thể áp dng tp quán...; tại Điều 666 Bộ luật quy định áp dụng tập quán quốc tế như sau: Các bên được lựa chọn tập quán quốc tế trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 664 của Bluật này....

Tuy nhiên, trong trường hợp không các quy định của pháp luật cũng như không tập quán thì việc áp dụng tương tự pháp luật cần thiết. Bộ luật n s2015 quy định tại Điều 6 như sau:

1. Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật n sự mà các bên không thoả thuận, pháp luật không có quy định không tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự.

2. Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ lut này, án lệ, lẽ công bằng”.

Cả ba phương pháp giải quyết xung đột nêu trên đều được vận dụng trong thực tế phù hợp với các hoàn cảnh cụ thể. Trong các phương pháp trên, phương pháp hiệu quả nhất dễ áp dụng nhất phương pháp thực chất, còn phương pháp phổ biến nhất, bao quát nhất phương pháp xung đột. Phương pháp thứ ba tuy không phương pháp điều chỉnh thường xuyên nhưng trong những trường hợp nhất định khi hai phương pháp trên không thực hiện được thì phương pháp thứ ba này lại phương pháp lựa chọn tất yếu.