Các biện pháp thực hiện đổi mới phương pháp dạy học

ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚIPHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở PHỔ THÔNGPGS. TS. NGUYỄN ĐỨC VŨTrường ĐHSP - Đại học HuếI. ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNGĐịnh hướng đổi mới PPDH đã được khẳng định trong Nghị quyết TW 4 khoá VII, Nghị quyết TW2 khoá VIII và được pháp chế hoá trong Luật Giáo dục (sửa đổi).Nghị quyết TW 2 (khoá VIII) nêu rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắcphục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụngcác phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào trong quá trình dạy học, bảo đảm điều kiệnvà thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học.”Điều 24.2. Luật Giáo dục quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực,tự giác, chủ động của học sinh; phù hợp với đặc diểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡngphương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm,đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.”Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 (Ban hành kèm theo Quyết định số 201/2001/QĐ- TTgngày 28 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ), ở mục 5.2. ghi rõ: “Đổi mới và hiện đạihoá phương pháp giáo dục. Chuyển từ việc truyền thụ tri thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang h-ướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học phươngpháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống và có tư duy phân tích, tổng hợp; pháttriển năng lực của mỗi cá nhân; tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viêntrong quá trình học tập,...”Như vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học phổ thông được diễn ra theo bốnhướng chủ yếu:- Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh.- Bồi dưỡng phương pháp tự học.- Rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn.- Tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.Trong đó, hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh là cơ bản, chủ yếu, chiphối đến ba hướng sau. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở TRƯỜNG PHỔTHÔNG1. Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học phổ biến theo hướng phát huy tính tích cực,chủ động học tập của học sinhCác phương pháp dạy học thuyết trình (giảng giải, giảng thuật, diễn giảng), đàm thoại, sử dụngphương tiện trực quan,... hiện nay được sử dụng phổ biến trong dạy học ở các trường phổ thông.Về bản chất, hoạt động dạy học trong các phương pháp này diễn ra theo kiểu giải thích - minh hoạ,hay thông báo - thu nhận, tác dụng phát triển tính tích cực, chủ động của học sinh không cao. Hoạtđộng nhận thức của học sinh diễn ra ở mức thông hiểu, ghi nhớ, tái hiện. Để khắc phục nhượcđiểm thụ động trong học tập, giáo viên dựa vào vốn tri thức, kĩ năng và khả năng học tập của họcsinh, đề ra các bài tập hay nhiệm vụ phù hợp, có nâng cao hơn so với khả năng hiện có của họcsinh, đòi hỏi các em phải có một sự cố gắng trong học tập, nỗ lực về trí tuệ để hoàn thành. Nhờvậy, tư duy được phát triển, tính tích cực học tập được đề cao. Một cách cụ thể, sử dụng các PPDHphổ biến theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh, đòi hỏi giáo viên bên cạnh nhiệmvụ truyền thụ tri thức cho học sinh, phải chú trọng nêu các câu hỏi nhận thức để thu hút sự chú ývà kích thích tư duy của học sinh, giao cho học sinh các bài tập nhỏ, vừa sức, giải quyết nhanhtrong thời gian ngắn ở trong lớp, tạo điều kiện cho các em làm việc với phương tiện trực quan đểhiểu nhanh hơn, hiểu sâu thêm kiến thức bài giảng.2. Tích cực sử dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đềDạy học giải quyết vấn đề là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra trước học sinh một (hay hệthống) vấn đề nhận thức, chuyển học sinh vào tình huống có vấn đề, sau đó giáo viên phối hợpcùng học sinh (hoặc hướng dẫn, điều khiển học sinh) giải quyết vấn đề, đi đến những kết luận cầnthiết của nội dung học tập. Phương pháp giải quyết vấn đề được tiến hành theo một trình tự gồm:đặt vấn đề và chuyển học sinh vào tình huống có vấn đề, giải quyết vấn đề, kết luận.Dạy học giải quyết vấn đề không phải chỉ sử dụng đối với tiết bài mới trên lớp, mà còn được sửdụng để củng cố, ôn tập và học bài ở nhà của học sinh. Dạy học giải quyết vấn đề có thể thực hiệnxen kẽ hay kết hợp với các phương pháp dạy học khác. Ngoài ra, dạy học giải quyết vấn đề cũngcó thể chỉ sử dụng trong một số nội dung của bài, không nhất thiết phải sử dụng toàn bài.3. Tăng cường vận dụng các phương pháp dạy học tiên tiến đề cao chủ thể nhận thức củahọc sinh, gồm có:a) Khảo sát, điều tra (hay Nghiên cứu), là phương pháp trong đó, căn cứ vào vấn đề được đặt ra vàdựa vào cơ sở các giả thuyết, học sinh tiến hành thu thập thông tin từ nhiều nguồn và bằng nhiềucách khác nhau. Sau đó, tiến hành phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát để xác định các giảthuyết đúng, rút ra các kết luận, nêu các giải pháp hoặc đề xuất các kiến nghị. Phương pháp khảosát, điều tra được tiến hành theo qui trình có các bước: 1) xác định vấn đề; đưa ra các giả thuyết;2) thu thập tư liệu, số liệu, dữ kiện thích hợp; 3) sắp xếp, phân tích số liệu, tư liệu..., hệ thống hóa;4) đối chiếu với giả thuyết và rút ra kết luận, khái quát hóa vấn đề.b) Thảo luận. Thảo luận là phương pháp học sinh mạn đàm, trao đổi với nhau xoay quanh một vấnđề được đặt ra dưới dạng câu hỏi, bài tập, hay nhiệm vụ nhận thức,...Trong phương pháp này, họcsinh giữ vai trò tích cực, chủ động tham gia thảo luận; giáo viên giữ vai trò nêu vấn đề, gợi ý, kiếnthiết và tổng kết.c) Động não: là phương pháp học sinh được kích thích suy nghĩ, bằng cách thu thập ý kiến khácnhau về một vấn đề mà không tiến hành đánh giá, trao đổi hay bình luận ý kiến đó. Phương phápnày cho phép làm xuất hiện một cách nhanh chóng một số ý kiến về một đề tài chung. Tuy tự dophát biểu, nhưng có nhiều ý kiến cùng hướng về một phía nhất định, tạo khả năng hình thành ýkiến chung. Phương pháp động não có thể thực hiện vào đầu tiết học, hoặc bắt đầu một vấn đề,một nội dung giữa bài học. Phương pháp này thực hiện theo các bước: 1) Nêu tên đề tài/chủđề/vấn đề (có thể gắn với phương tiện trực quan) và đặt câu hỏi kích thích suy nghĩ của học sinh;2) Yêu cầu cả lớp động não. Ghi ý kiến của mình bằng thẻ vào giấy nhỏ ghim lên bảng, hoặc từngngười một trình bày ngắn gọn trước lớp ý kiến của mình. Không nhận xét, đánh giá các ý kiến đó;3) Sau khi không còn ý kiến nữa, có thể nhóm các ý kiến lại và đánh giá khái quát về công dụng vàtính khả thi.d) Tranh luận. Trong bài học có một số vấn đề có thể làm xuất hiện hai (hoặc nhiều) cách giảiquyết khác nhau. Giáo viên có thể nêu ra các khả năng giải quyết, sau đó đặt câu hỏi chung chotoàn lớp và lấy ý kiến (bằng cách đưa tay) để phân loại số em theo cách này, số em theo cách khác.Sau đó, giáo viên đặt câu hỏi “Tại sao em chọn cách này mà không chọn cách khác?” để học sinhtheo cách khác nhau tranh luận với nhau.e) Đóng vai là phương pháp được đặc trưng bởi một hoạt động với các nhân vật giả định, mà trongđó, các tình thế trong thực tiễn cuộc sống được thể hiện thành những hành động có tính kịch.Trong vở kịch này, các vai khác nhau do chính học sinh đóng và trình diễn. Các hành động có tínhkịch được xuất phát từ chính sự hiểu biết, óc tưởng tượng và trí sáng tạo của các em, không cầnphải qua tập dượt hay dàn dựng. Phương pháp đóng vai được tiến hành theo các bước: 1) tạokhông khí để đóng vai; 2) lựa chọn vai; 3) các vai trình diễn. 4) Nếu thấy ý đồ của mình đã đư ợcthực hiện, thì giáo viên có thể cho ngừng diễn, sau đó hướng dẫn học sinh thảo luận về các cáchgiải quyết vấn đề của vai diễn và đánh giá vở diễn.4. Sử dụng phương tiện dạy học theo hướng đề cao vai trò chủ thể nhận thức của học sinhCác phương tiện dạy học chứa trong bản thân nó dưới dạng vật chất cả hình ảnh bên ngoài lẫnnhững dấu hiệu, thuộc tính bên trong của các đối tượng học tập, nhờ các thao tác tư duy của họcsinh, các đặc điểm đó “lộ” hẳn ra bên ngoài. Như vậy, phương tiện dạy học thực sự là nguồn trithức, đòi hỏi một sự khám phá, tìm tòi của người học. Từ đó dẫn đến việc sử dụng các phương tiệntrực quan trong dạy học cũng phải theo hướng mới: đó là xem chúng như công cụ để giáo viên tổchức chỉ đạo hoạt động nhận thức của học sinh, đồng thời xem chúng là nguồn tri thức để học sinhtìm tòi, khám phá, rút ra những nội dung cần thiết cho nhận thức của mình.Trong những năm gần đây, các phương tiện hiện đại về nghe nhìn, thông tin và vi tính đã nhanhchóng xâm nhập vào nhà trường và trở thành các phương tiện dạy học có tác dụng cao. Một mặt,chúng góp phần mở rộng các nguồn tri thức cho học sinh, giúp cho việc lĩnh hội tri thức của cácem nhanh chóng hơn với một khối lượng tri thức đa diện và to lớn; mặt khác, chúng góp phần vàoviệc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên THPT. Một khi học sinh có khả năng nhanhchóng thu nhận được kiến thức từ các nguồn khác nhau, thì việc thuyết giảng của giáo viên theokiểu thông báo - thu nhận trở nên không cần thiết, phương pháp dạy học phải chuyển đến việc tổchức cho học sinh khai thác tri thức từ các nguồn khác nhau, chọn lọc hệ thống hóa và sử dụngchúng. Như vậy, phương tiện dạy học hiện đại tạo điều kiện rộng rãi cho dạy học theo hướng tíchcực hoá hoạt động nhận thức của học sinh.5. Phối hợp các hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạtTrong dạy học ở trường phổ thông có nhiều hình thức tổ chức khác nhau, như: dạy học cá nhân,dạy học theo nhóm, dạy học theo lớp, dạy học ngoài trời, trò chơi học tập, tham quan, khảo sát địaphương, ngoại khóa,... Mỗi hình thức tổ chức dạy học có chức năng và ý nghĩa khác nhau đối vớiviệc thực hiện các nhiệm vụ dạy học đòi hỏi phải phối hợp chúng một cách linh hoạt.6. Kết hợp nhiều loại hình kiểm tra, đánh giá trong dạy học- Một bài kiểm tra cần đạt các yêu cầu sau: 1) Nội dung kiểm tra là những kiến thức và kĩ năng cơbản, trọng tâm của bài, chương, có ý nghĩa thiết thực đối với học sinh; 2) Chú trọng cả kiến thức,kĩ năng, thái độ. Trong kiến thức, có cả câu hỏi sự kiện, kiểm tra trí nhớ và câu hỏi suy luận; 3) Độkhó của bài phù hợp với chuẩn đánh giá của môn học, nội dung bài làm phù hợp với thời lượng quiđịnh; 4) Có sự phân hóa học sinh, tạo cơ hội bộc lộ sự sáng tạo của các em.- Tùy mục đích, đối tượng và điều kiện, có các hình thức kiểm tra, đánh giá khác nhau: quan sát,câu hỏi kiểm tra (kiểm tra nói, kiểm tra viết), bài tập, học sinh tự đánh giá, thực hành, trắc nghiệmkhách quan.III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ1. Đổi mới PPDH cần phải được xác định như một trách nhiệm cụ thể của toàn thể giáo viên, họcsinh, cán bộ quản lý và cán bộ phục vụ giáo dục ở trong nhà trường, chứ không phải chỉ là việcriêng của giáo viên đứng lớp, mặc cho họ là những người trực tiếp tác chiến từng bài học, tiết học,lớp học với học sinh của mình.2. Rất coi trọng việc đổi mới PPDH, nhưng không vì thế mà luôn bị ám ảnh dẫn đến nặng nề trongcông tác chuyên môn và đời sống thường ngày ở trường, ở tổ chuyên môn. Đổi mới PPDH vớimục tiêu gần gũi là chuyển học sinh từ học thụ động sang học chủ động, tích cực là một quá trìnhđòi hỏi sự nỗ lực, kiên trì và cả sự dũng cảm của mỗi cán bộ, giáo viên. Không vì chạy theo thànhtích mà làm vội, làm ẩu, nhân danh đổi mới để làm những việc không đáng phải làm. Việc đổi mớivừa có thể diễn ra đồng loạt, vừa có thể bắt đầu trọng điểm từ những yếu tố cốt lõi, tiền đề; có thểdiễn ra trong toàn thể giáo viên, nhưng cũng có thể bắt đầu từ một số giáo viên có năng lực và kinhnghiệm dạy học; sau đó mở rộng dần.3. Việc sử dụng công nghệ thông tin chỉ là một trong những biện pháp đổi mới PPDH. Công nghệthông tin cũng chỉ là một loại phương tiện dạy học. Việc sử dụng chúng đạt hiệu quả hay không,có tác dụng thiết thực đến đổi mới PPDH hay không tuỳ thuộc vào cách dạy của từng giáo viên cụthể. Nếu sử dụng loại phương tiện hiện đại này để thuyết trình bài dạy học, thay cho việc ghi bảngcủa giáo viên, thì vẫn là cách dạy cũ làm cho học sinh thụ động trong học tập. Việc sử dụng côngnghệ thông tin để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập, thông qua tổ chứchợp lí hoạt động nhận thức của học sinh là biện pháp đẩy nhanh việc đổi mới PPDH ở trường phổthông, nâng cao chất lượng bài dạy học.N.Đ.V