Bê tông nứt ở đai phép là do gì

Bề rộng vết nứt cho phép: Đối với cấu kiện bê tông cốt thép không có quy định cụ thể, thì bề rộng vết nứt cho phép 0.3mm theo ACI 224R và BS 8110. Các vết nứt có bề rộng lớn cần phải khắc phục bằng keo trám.

Mỗi loại vết nứt sẽ hình thành trong khoảng thời gian khác nhau.

.jpg)

  1. 1. Nứt do ổn định dẻo

    Đây là quá trình diễn ra khi bê tông còn dẻo, nước tách lên trên mặt kèm theo sự giới hạn của ván khuôn làm cho hiện tượng nứt có thể sảy ra. Các vị trí thường sảy ra vết nứt như:

    Bê tông nứt ở đai phép là do gì

    Các biện pháp phòng tránh Nứt do ổn định dẻo

    • Tăng tính kết dính, đủ hàm lượng mịn và tránh hiện tượng phân tầng
    • Lắp ghép ván khuôn chắc chắn
    • Đầm rùi bê tông cẩn thận
    • Bảo dưỡng beton kịp thời và đúng cách.

    2. Nứt do co ngót dẻo (Plastic-shrinkage cracks)

    Các vết nứt do co ngót dẻo xảy ra trên bề mặt bê tông mới đổ trong quá trình hoàn thiện hoặc ngay sau đó (nhưng trước khi bê tông đông kết cuối cùng). Loại vết nứt này thông thường là ngẫu nhiên, không có định hướng rõ ràng.

    Các vết nứt do co ngót dẻo là do lượng nước trộn bị mất nhanh chóng khi bê tông đã được ninh kết. Điều này có thể do bốc hơi nước quá mức hoặc do ván khuôn hoặc đất hút nước quá mức. Điều này làm cho bê tông bị co lại cục bộ, trong khi các khu vực khác không bị mất nước hầu như không bị co ngót. Điều này gây ra ứng suất kéo trong bê tông. Nếu ứng suất vượt quá cường độ chịu kéo của bê tông (tự nhiên lúc đầu rất thấp), các vết nứt sẽ hình thành .Chúng có thể vượt quá 1mm. Các tấm bê tông nằm ngang có thể đặc biệt dễ bị co ngót dẻo.

    Biện pháp phòng tránh:

    • Phun hợp chất chống thoát hơi nước sau khi làm láng mặt.
    • Tránh đổ bê tông trong điều kiện nắng nóng hoặc gió lớn.
    • Bảo dưỡng ngay sao khi hoàn thiện
    • Làm ướt ván khuôn và bề mặt dưới .
    • Sử dụng sợi PP trong cấp phối beton.

    3. Nứt rạn bề mặt

    Nứt rạn là sự phát triển của mạng lưới các vết nứt mịn ngẫu nhiên trên bề mặt bê tông do sự co ngót của lớp bề mặt. Chúng có nhiều khả năng xảy ra trên các bề mặt được làm láng. Những vết nứt này rất khó coi nhưng hiếm khi ảnh hưởng đến tính chịu lực của cấu trúc của bê tông.

    Hiện tượng nứt rạn xảy ra khi thi công bê tông không liên tục và đúng cách, ví dụ như bảo dưỡng kém, bê tông quá nhão, bề mặt khô nhanh hoặc khi bê tông hoàn thành quá sớm trong khi vẫn còn nước chảy. Hiện tượng này thường xảy ra trên phần tử bê tông “được làm láng” với các dấu hiệu nhận biết như:

    • Một mạng lưới các vết nứt ngẫu nhiên trên bề mặt
    • Hiếm khi sâu hơn 2mm
    • Thường tạo thành các vùng hình lục giác có chiều ngang không quá 40mm

    Biện pháp phòng tránh

    • Tránh lượng vữa cao trong cấu trúc
    • Sự dụng cát thô, tránh cát quá mịn
    • Kiểm soát thời gian đông kết
    • Bảo dưỡng bê tông sớm nhất có thể
    • Không hoàn thiện bề mặt khi vẫn còn nước tách
    • Không rắc hoặc chát xi măng khô lên bề mặt để hút nước
    • Tránh đầm bê tông quá nhiều lần.

    4. Nứt do co ngót khô (Drying Shrinkage cracks)

    Khi bê tông đã đông kết, quá trình co ngót khô tiếp tục kéo dài hàng tuần và hàng tháng trước khi kết thúc hoàn toàn. Sự co ngót khi sấy khô (còn gọi là co ngót thủy lực) là do:

    • thủy hóa xi măng, liên kết với một phần nước trộn

    • bốc hơi nước trộn từ bề mặt bê tông

    • Sự điều chỉnh nhiệt độ ban đầu của bê tông với nhiệt độ của môi trường

    Vết nứt do co ngót khô sẽ xuất hiện trong khoảng từ 0,3– 1,0 mm / m, tùy thuộc vào thiết kế hỗn hợp, loại cốt liệu, tỷ lệ w / c và mức độ khô. Nếu mức độ khô giảm xuống, chẳng hạn do tiếp xúc với mưa, mặt cắt bê tông sẽ nở ra một chút, có nghĩa là độ co ngót khi khô sẽ được lùi lại phần nào. Sau khi làm khô thêm, sự co rút sẽ trở lại mức cũ.

    Cách hạn chế co ngót khô

    • Lắp đặt bố chí thép phù hợp với co ngót khô .
    • Cứ mỗi 69m cần có khe hở theo TCXDVN 313-2004
    • Tối ưu nước trên xi măng khoảng 0.40.5
    • Giảm thể tích vữa, Sử dụng cốt liệu lớn hơn.
    • 5. Nứt do nhiệt

      Các vết nứt có thể hình thành do co ngót nhiệt nếu tồn tại sự chênh lệch nhiệt độ đáng kể giữa các vị trí trong khối bê tông. Sự khác biệt về nhiệt độ có thể phát sinh do độ dẫn nhiệt của bê tông tương đối thấp.

      Sự khác biệt như vậy đa phần xảy ra trong bê tông khối lớn khi nhiệt hydrat hóa được giải phóng tronh suốt quá trình thủy hóa và nhiệt độ lõi tăng lên đáng kể. Khi sự cân bằng nhiệt độ trong phần bê tông xảy ra, ứng suất bên trong sẽ được tạo ra, bởi vì các khu vực nhiệt độ cao co lại nhiều hơn các khu vực nhiệt độ thấp. Nếu ứng suất vượt quá cường độ chịu kéo của bê tông, các vết nứt sẽ hình thành.