Bài tập ví dụ về các phân loại tâm lí năm 2024
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Tâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua chủ thể, tâm lí người có bản chất xã hội - lịch sử. Show
1.1 Tâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua chủ thểTâm lí người không phải do thượng đế hay do trời sinh ra, cũng không phải là do não tiết ra như gan tiết ra mật, tâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não con người thông qua “lăng kính chủ quan”. Thế giới khách quan tồn tại bằng các thuộc tính không gian, thời gian và luôn vận động. Phản ánh là thuộc tính chung của mọi sự vật, hiện tượng đang vận động. Nói một cách chung nhất, phàn ánh là quá trình tác động qua lại giữa hệ thống này và hệ thống khác, kết quả là để lại dấu vết (hình ảnh) tác dộng ớ cả hệ thống tác động và hệ thống chịu sự tác dộng, chẳng hạn:
Phản ánh diễn ra từ đơn giản đến phức tạp và có sự chuyển hoá lẫn nhau, từ phản ánh cơ, vật lí, hoá học đến phản ánh sinh vật và phản ánh xã hội, trong đó có phản ánh tâm lí. Phản ánh tâm lí là một loại phản ánh đặc biệt:
Hình ảnh tâm lí mang tính sinh động, sáng tạo, ví dụ: hình ảnh tâm lí về cuốn sách trong đầu một người biết chữ khác xa về chất với hình ảnh vật lí có tính chất “chết cứng”, hình ảnh vật chất của chính cuốn sách đó có ở trong gương. Hình ảnh tâm lí mang tính chủ thể, mang đậm màu sắc cá nhân (hoặc nhóm người) mang hình ảnh tâm lí đó, hay nói cách khác, hình ảnh tâm lí là hình cành chủ quan về hiện thực khách quan. Tính chủ thể của hình ảnh tâm lí thê hiện cụ thể là: Mỏi chủ thể trong khi tạo ra hình ảnh tâm lí về thế giới đã đưa vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm, đưa cái riêng của mình (về nhu cầu, xu hướng, tính khí, năng lực)... vào trong hình ảnh đó, làm cho nó inang đậm màu sắc chủ quan. Nói cách khác, con người phản ánh thế giới bằng hình ảnh tâm lí, thông qua “lãng kính chủ quan” cùa mình. Tính chủ thể trong phản ánh tâm lí thể hiện ở những khía cạnh sau:
Do đâu mà tâm lí người này khác tâm lí người kia về thế giới? Điều đó do nhiều yếu tố chi phối: Trước hết, do mỗi con người có những đặc điểm riêng về cơ thể, giác quan, hệ thần kinh và não bộ. Đồng thời, mỗi người có một hoàn cảnh sống, diều kiện giáo dục khác nhau và đặc biệt là mỗi cá nhân thể hiện mức dộ tích cực hoạt động, tích cực giao lưu không như nhau trong cuộc sống. Vì thế, tâm lí người này khác tâm lí người kia. Từ luận điểm nói trên, chúng ta có thể rút ra một sỏ kết luận thực tiễn sau:
1.2 Bản chất xã hội của tâm lí ngườiTâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan, là chức năng của não, là kinh nghiệm xã hội lịch sử biến thành cái riêng của mỗi người. Tâm lí con người khác xa với tâm lí của một số loài dộng vật cao cấp, biểu hiện là: Tâm lí người có bản chất xã hội và mang tính lịch sử. Bản chất xã hội và tính lịch sử của tâm lí người thể hiện như sau:
Tóm lại, tâm lí người có nguồn gốc xã hội, vì thế phải nghiên cứu môi trường xã hội, nền văn hoá xã hội, các quan hệ xã hội trong dó con người sống và hoạt động. Cần phải tổ chức có hiệu quả hoại động dạy học và giáo dục, cũng như các hoạt động chủ đạo ử từng giai đoạn lứa tuổi khác nhau để hình thành, phát triển tâm lí con người... 2. Chức năng của tâm líHiện thực khách quan quyết định tâm lí con người, nhưng chính tâm lí con người lại tác động trở lại hiện thực bằng tính năng động, sáng tạo của nó thông qua hoạt động, hành động, hành vi. Mỗi hoạt động, hành động của con người đều do “cái tâm lí” điều hành. Sự điều hành ấy biểu hiện qua những mặt sau:
Nhờ có các chức năng định hướng, điều khiển, điều chính nói trên mà tâm lí giúp con người không chỉ thích ứng với hoàn cảnh khách quan, mà còn nhận thức, cải tạo và sáng tạo ra thế giới. Đồng thời, chính trong quá trình đó, con người nhận thức, cải tạo chính bản thân mình. Nhờ chức năng điều hành nói trên mà nhân tố tâm lí giữ vai trò cơ bản, có tính quyết định trong hoạt động của con người. 3. Phân loại hiện tượng tâm lí3.1 Dựa trên căn cứ khác nhau, có nhiều cách phân loại các hiện tượng tâm lí:Căn cứ vào thời gian tồn tại của hiện tượng tâm lí và vị trí tương đối của chúng trong nhân cách, có thể phân chia các hiện tượng tâm lí thành ba loại chính:
Các quá trình tâm lí là những hiện tượng tâm lí diễn ra trong thời gian tương đối ngắn, có mở đầu, diển biến, kết thúc tương đối rõ ràng. Người ta thường phân biệt thành ba quá trình tâm lí:
Các trạng thái tâm lí là những hiện tượng tâm lí diễn ra trong thời gian tương đối dài, việc mở đầu và kết thúc không rõ ràng, như: chú ý, tâm trạng. Các thuộc tính tâm lí là những hiện tượng tâm lí tương dối ổn định, khó hình thành và khó mất đi, tạo thành những nét riêng của nhân cách. Người ta thường nói tới bốn nhóm thuộc tính tâm lí cá nhân như: xu hướng, tính cách, khí chất và năng lực. Có thể biểu diễn mối quan hộ giữa các hiện tượng tâm lí bằng sơ đồ sau: Sơ đồ: Mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lí 3.2. Căn cứ vào sự tham gia của ý thức
Chúng ta có nhiều nhận biết về các hiện tượng tâm lí có ý thức (được nhận thức hay tự giác). Còn những hiện tượng tâm lí chưa được ý thức vẫn luôn diễn ra, nhưng ta không ý thức về nó, hoặc dưới ý thức, chưa kịp ý thức. Một số tác giả nước ngoài còn chia ý thức thành hai mức:
3.3 Căn cứ vào mức độ thể hiện qua hoạt động và sản phẩm hoạt độngHiện tượng tâm lí sống động: thể hiện trong hành vi hoạt động. Hiên tượng tâm lí tiềm tàng: tích động trong sản phẩm của hoạt động. 3.4 Căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng đối với cá nhân hay xã hội
Như vậy, thế giới tâm lí của con người vô cùng da dạng và phức tạp. Các hiện tượng tâm lí có nhiều mức độ, cấp độ khác nhau, có quan hệ đan xen vào nhau, chuyển hoá cho nhau. Nhằm giúp các bạn sinh viên có thêm tư liệu tham khảo, eLib đã tổng hợp nội dung bài giảng Bài 2: Bản chất, chức năng, phân loại các hiện tượng tâm lí bao gồm bản chất của tâm lí người, chức năng của tâm lí và phân loại hiện tượng tâm lí. Hy vọng tư liệu này giúp các bạn nắm bắt nội dung bài học dễ dàng hơn. |