Bài tập pháp luật đại cương về quyền sở hữu

Quyền sở hữu là chỉ tổng hợp các qui phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng.

Khái niệm quyền sở hữu được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:

Theo nghĩa khách quan đó là toàn bộ các qui định của Nhà nước về vấn đề sở hữu. Quy định về quyền sở hữu trong các ngành luật khác nhau.

Theo nghĩa chủ quan đó là toàn bộ những hành vi mà chủ sở hữu được pháp luật cho phép thực hiện trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản theo ý chí của mình. Quyền sở hữu bao giờ cũng gắn liền với chủ thể nên được coi là loại quyền tuyệt đối.

Quyền sở hữu còn được hiểu là một quan hệ pháp luật dân sự bao gôm ba yếu tố: chủ thể, khách thể và nội dung.

Khái niệm quyền sở hữu vừa là một phạm trù kinh tế vừa là một phạm trù pháp lý.

Là phạm trù kinh tế.

Sở hữu thể hiện các quan hệ sản xuất xã hội, phương thức chiếm hữu và phân phối trong từng hình thái kinh tế- xã hội và quan hệ xã hội nhất định. Sở hữu là việc tài sản, thành quả lao động, tư liệu sản xuất thuộc về ai, do đó nó thể hiện quan hệ giữa người với người trong quá trình tạo ra và phân phối các thành quả vật chất.

Là phạm trù pháp lý.

quyền sở hữu mang tính chất chủ quan vì nó là sự ghi nhận của Nhà nước, nhưng Nhà nước không thể đặt ra quyền sở hữu theo ý chí chủ quan của mình mà quyền sở hữu được qui định trước hết bởi nội dung kinh tế xã hội, tức là thể chế hoá những quan hệ chiếm hữu, sử  dụng và định đoạt những của cải vật chất do con người tạo ra.

Nội dung quyền sở hữu

Thứ nhất là quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản thuộc sở hữu của mình.

Trong trường hợp chủ sở hữu của mình. Trong trường hợp chủ sở hữu tự mình chiếm hữu tài sản của mình thì chủ sở hữu thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản lý tài sản. Việc chiếm hữu của chủ sở hữu là chiếm hữu có căn cứ pháp luật bị hạn chế giai đoạn thời gian.

Quyền chiếm hữu bao gồm hai loại:

Chiếm hữu  có căn cứ pháp luật [chiếm hữu hợp pháp] dựa trên các căn cứ sau.

Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản; Chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản trong phạm vi uỷ quyền; Được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua các giao dịch dân sự phù hợp với ý chí của chủ sở hữu [người đang chiếm hữu  hợp pháp chỉ được sử dụng hoặc chuyển giao quyền chiếm hữu tài sản cho người khác nếu được chủ sở hữu đồng ý]; Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm phù hợp với các điều kiện do pháp luật qui định.

Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy định và các trường hợp khác do pháp luật quy định. Chẳng hạn Điều 242 qui định: ”Người bắt được gia súc bị thất lạc  phải nuôi giữ và báo cho UBND xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại“. Trong thời gian chủ sở hữu chưa đến nhận lại thì là chiếm hữu hợp pháp.

Đối với chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật [chiếm hữu bất hợp pháp].

Chiếm hữu bất hợp pháp là bị chiếm hữu không dựa trên cơ sở pháp luật nên không được pháp luật thừa nhận.

 Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là hợp người chiến hữu không biết và không thể biết mình chiếm hữu không dựa trên cơ sở pháp luật.

Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình đó là trường hợp người chiếm hữu biết hoặc pháp luật buộc phải biết là mình chiếm hữu không dựa trên cơ sở pháp luật.

Việc xác định chiếm hữu ngay tình hay không ngay tình thực trên hết sức khó khăn, do vậy phải dựa vào nhiều yếu tố: trình độ nhận thức, thời gian, địa điểm, giá trị tài sản,…Việc phân biệt này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đó là: trong trường hợp chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình thì nếu chiếm giữ liên tục, công khai một thời hạn do luật định, hết thời hạn đó có thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó.

Ngoài ra, người chiếm hữu còn có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Ngược lại, người chiếm hữu bất hợp pháp không ngay tình thì trong mọi trường hợp phải trả lại tài sản kể cả hoa lợi, lợi tức thu được từ việc khai thác công dụng của tài sản, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Thứ hai, quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản.

Nghĩa là chủ sở hữu có quyền khai thác giá trị tài sản theo ý chí của mình bằng những cách thức khác nhau nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất tinh thần của bản thân miễn là không gây thiệt hại và làm ảnh hưởng đến lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

Cũng như quyền chiếm hữu, quyền sử dụng không chỉ thuộc về chủ sở hữu tài sản mà còn thuộc về những người không phải chủ sở hữu nhưng được chủ sở hữu giao quyền hoặc theo qui định của pháp luật [người mượn tài sản, thuê tài sản thông qua các hợp đồng dân sự,…].

Ngoài ra, pháp luật còn qui định người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình cũng có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản theo qui định pháp luật. Bởi lẽ, những người này họ hoàn toàn không biết mình đang chiếm hữu tài sản mà không có căn cứ luật định.

Thứ ba, quyền định đoạt theo quy định tại Điều 195 Bộ luật Dân sự “Quyền định đoạt là quyền  chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc bỏ quyền sở hữu đó“.

Như vậy chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt của mình thông qua việc quyết định “số phận“ pháp lý hoặc “số phận“ thực tế của tài sản. Người không phải chủ sở hữu cũng có quyền định đoạt tài sản theo uỷ quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật.

Định đoạt “số phận“ pháp lý tài sản: tức là chuyển quyền sở hữu của mình cho người khác thông qua các giao dịch dân sự như: ký kết hợp đồng mua bán, hợp đồng tặng cho tài sản…

Định đoạt “số phận“ thực tế của tài sản: chủ sở hữu bằng hành vi của mình làm cho tài sản không còn trong thực tế như sử dụng hết hoặc tiêu huỷ tài sản. Tuy nhiên, đối với một số loại tài sản thì khi thực hiện quyền định đoạt phải tuân theo những qui định khác của pháp luật.

Theo qui định của pháp luật chủ sở hữu có thể tự mình thực hiện quyền định đoạt hoặc uỷ quyền cho người khác thực hiện quyền định đoạt tài sản [thông qua việc bán đại lý hàng hoá].

Để thực hiện quyền định đoạt thì chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu uỷ quyền phải đảm bảo năng lực chủ thể theo qui định của pháp luật, chẳng hạn lập di chúc hoặc bán nhà thì nguyên tắc phải từ đủ 18 tuổi trở lên, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi để tránh tình trạng bị lừa dối hay bị cưỡng ép,…

Quyền định đoạt của chủ sở hữu bị hạn chế trong một số trường hợp sau:

Chỉ trong trường hợp do pháp luật quy định. Quy định này nhằm mục đích ngăn chặn các cơ quan có thẩm quyền hoặc người có thẩm quyền đặt ra các quy định hạn chế quyền định đoạt của các chủ thể trái với Hiến pháp và luật.

Khi tài sản đem bán là di tích lịch sử, văn hoá  thì Nhà nước Việt Nam có quyền ưu tiên mua.

Trong trường hợp pháp luật qui định quyền ưu tiên mua cho cá nhân, pháp nhân hay chủ thể khác đối với một tài sản nhất định thì khi bán tài sản đó chủ sở hữu phải giành quyền ưu tiên mua cho các chủ thể  đó [bán nhà đang cho thuê, bán tài sản chung của nhiều người].

Từng quyền năng trong nội dung quyền sở hữu có thể do chủ sở hữu hoặc người không phải chủ sở hữu thực hiện, nhưng việc thực hiện không mang tính độc lập mà phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu, chỉ có chủ sở hữu mới có quyền thực hiện một cách độc lập không phụ thuộc vào người khác. Cả ba quyền trên tạo thành một thể thống nhất trong nội dung quyền sở hữu, có mối quan hệ mật thiết với nhau nhưng mỗi quyền năng lại mang một ý nghĩa khác nhau.

Full PDF PackageDownload Full PDF Package

This Paper

A short summary of this paper

37 Full PDFs related to this paper

Download

PDF Pack

I. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu
[Điều 228 BLDS 2015]

Một buổi tối, anh A đi dạo ở khu vui chơi giải trí công viên, anh ngồi lại nghỉ trên một cái ghế đá, anh có trông thấy gần đó có một đôi nam nữ đang cãi nhau. Sau khi cãi nhay vì quá tức giận nên cô gái đã tháo chiếc nhẫn trên tay và ném xuống đất đến gần chỗ anh A, còn anh trai kia thì bỏ về bỏ lại cô bạn gái. Anh A thấy vậy, nhặt chiếc nhẫn lên bỏ vào túi và bước đi về. Nhưng khi vừa đii được vài bước, chị kia liền gọi anh lại và đòi anh A phải trả lại chiếc nhẫn, và anh đã không đồng ý chấp thuận vì anh ấy cho rằng khi cô gái vứt đi thì anh A nhặt lên [ anh A xác nhận là gia tài vô chủ ], sau đó anh A cho rằng có ý xác lập quyền sở hữu với chiếc nhẫn đó .

Đặt câu hỏi cho sinh viên: Theo bạn, Anh A có thể coi chiếc nhẫn ấy là vật chưa xác định
được chủ sở hữu hay không? Vì sao?

Gợi ý trả lời:

1. Căn cứ pháp lý:
Điều 228. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định
được chủ sở hữu.

  1. Tài sản vô chủ là tài sản mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản đó.
  • Người đã phát hiện, người đang quản lý tài sản vô chủ là động sản thì có quyền sở hữu tài sản đó, trừ trường hợp luật có quy định khác; nếu tài sản là bất động sản

    thì thuộc về Nhà nước.

  1. Người phát hiện tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu phải thông báo hoặc giao nộp cho Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông

    báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.

  • Việc giao nộp phải được lập biên bản, trong đó ghi rõ họ, tên, địa chỉ của người
    giao nộp, người nhận, tình trạng, số lượng, khối lượng tài sản giao nộp.
  • Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho
    người phát hiện về kết quả xác định chủ sở hữu.
  • Sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai mà không xác định được ai là chủ sở hữu tài sản là động sản thì quyền sở hữu đối với động sản đó thuộc về người phát

    hiện tài sản.

  • Sau 05 năm, kể từ ngày thông báo công khai mà không xác định được ai là chủ sở hữu tài sản là bất động sản thì bất động sản đó thuộc về Nhà nước; người phát

    hiện được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.

2. Hướng giải quyết:

  • Việc anh A nhìn thấy cô gái ném chiếc nhẫn đi và coi đó là vật vô chủ, điều này không thể chứng minh được bởi có thể cô ấy chỉ do tức giận nên mới có hành vi ném chiếc

    nhẫn. Vậy nên, chiếc nhẫn là vật chưa xác định được chủ sở hữu.

  • Để anh A có thể xác lập quyền sở hữu đối với chiếc nhẫn đòi hỏi anh phải có bằng
    chứng về việc cô gái đã từ bỏ quyền sở hữu với chiếc nhẫn đó.

II. Xác lập quyền sở hữu trong trường hợp tài sản bị chôn, giấu, vùi lấp, chìm đắm

được tìm thấy [Điều 229 BLDS 2015]

Trong quy trình đào ao thả cá, mái ấm gia đình chị B có tìm thấy một chiếc bát cổ không rõ nguồngốc, lai lịch. Sau khi phát hiện và dữ gìn và bảo vệ, mái ấm gia đình chị để tọa lạc trong nhà và khôngbáo với chính quyền sở tại, cũng không có dự tính bán đi. Tuy nhiên chị N [ bạn chị B ] thao tác tạihuyện khuyên chị B nên nộp chính quyền sở tại vì gia tài tìm được thuộc về nhà nước và người nộpsẽ được thưởng .

Đặt câu hỏi cho sinh viên:

Chiếc bát cổ mà gia đình chị B tìm được có thuộc về nhà nước hay không?
Nếu giao nộp gia đình chị B có được thưởng thù lao hay không?
Gợi ý trả lời:

1. Căn cứ pháp lý:

Điều 229. Xác lập quyền sử hữu với tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm

thấy.

  1. Người phát hiện tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phải thông báo hoặc trả lại ngay cho chủ sở hữu; nếu không biết ai là chủ sở hữu thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất hoặc cơ

    quan nhà nước có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật

  2. Tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy mà không có hoặc không xác định được ai là chủ sở hữu thì sau khi trừ chi phí tìm kiếm, bảo quản, quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau: a] Tài sản được tìm thấy là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hóa, di vật, cổ vật, tài sản thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh quốc gia, theo quy định của Luật di sản văn hóa thì thuộc về Nhà nước; người tìm thấy tài sản đó được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật. b] Tài sản được tìm thấy không phải là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa mà có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương

    cơ sở do Nhà nước quy định thì thuộc sở hữu của người tìm thấy; nếu tài sản tìm

viên đó lại dọn bàn nên cấp trên đã kiểm tra lại camera và phát hiện anh C đúng là có cầm cả đồng hồ đeo tay. Vị khách tức giận đã nhìn nhận nhà hàng quán ăn một cách tệ hại .

1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn

Mâu thuẫn giữa anh nhân viên cấp dưới C và vị khách xảy ra là do sau khi nhặt được gia tài là đồng hồ đeo tay và ví tiền, anh C không báo lại với cấp trên để hoàn trả cho khách mà còn giữ làm của riêng và đem đi cầm lấy tiền. Lúc trả khách còn trọn vẹn chối là không hề thấy chiếc đồng hồ đeo tay làm cho vị khách tức giận về hành vi sai lầm của anh C và đã tác động ảnh hưởng đến khét tiếng nhà hàng quán ăn .

2. Căn cứ pháp lý
Điều 230: Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi hoặc bỏ quên. “1. Người phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho người đó; nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. – Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu. 2. Sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai về tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau: a] Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bỏ quên có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người nhặt được được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của Bộ luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; trường hợp tài sản có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì sau khi trừ chi phí bảo quản, người nhặt được được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước; b] Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa thì tài sản đó thuộc về Nhà nước; người nhặt được tài sản được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.”

3. Hướng giải quyết:


Dựa trên cơ sở quy định Điều 230 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi hoặc bỏ quên, các bên nên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong vụ việc và các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.

Anh nhân viên C đã có hành vi chiếm giữ trái phép tài sản của người khác [vì sau khi

anh thấy được tài sản của khách hàng đã không báo lại với cấp trên để bên cấp trên liên lạc với khách hàng hoàn trả phần tài sản đó và còn đem giữ làm của riêng] là

đang vi phạm quy định điều 230 Bộ luật dân sự.

Xem thêm: Khái niệm đại diện và phân loại đại diện theo Bộ luật dân sự 2015

– Vì thế anh nhân viên C phải lập tức hoàn trả đủ số tiền cho khách hàng cũng như
nói lời xin lỗi một cách chân thành nhất để mong khách hàng có thể bỏ qua.
+ Nếu khách hàng bỏ qua, thì anh nhân viên C cũng phải chịu trách nhiệm một phần nào đó về việc làm ảnh hưởng tới danh tiếng nhà hàng theo phương thức đền bù thiệt hại nào đó. + Nếu khách hàng không bỏ qua và đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết

thì anh nhân viên C sẽ chịu trách nhiệm vi phạm theo như quy định pháp luật.

IV. Xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc [Điều 231 BLDS 2015]

Ông D ở trung du miền núi. Thời gian gần đây, có con dê đi vào vườn nhà ông. Ông D đã treo bảng thông báo trước cửa nhà nhằm tìm lại chủ của con dê vì dê thất lạc có thể của người trong vùng do tập quán thả rông gia súc để ăn cỏ. Sau hơn 01 năm, ông đã phối giống con dê trên với dê đực nhà ông nuôi và cho ra đời 3 con dê. Bây giờ có người tự nhận là chủ của con dê, yêu cầu ông trả dê và trả luôn cả dê con.

Đặt câu hỏi cho sinh viên: Trong trường hợp này ông D nên giải quyết như thế nào?

1. Căn cứ pháp lý:

► Căn cứ Khoản 1 Điều 231 Bộ luật dân sự 2015 quy định về xác lập quyền sở hữu đối

với gia súc bị thất lạc như sau:

“Người bắt được gia súc bị thất lạc phải nuôi giữ và báo ngay cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Sau 06 tháng, kể từ ngày thông báo công khai hoặc sau 01 năm đối với gia súc thả rông theo tập quán thì quyền sở hữu đối với gia súc và số gia súc được sinh ra trong thời gian nuôi giữ thuộc về người bắt được gia súc.”

– Căn cứ về xác lập quyền sở hữu: việc treo bảng thông báo trước cửa nhà của ông

D là không đủ căn cứ để xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc, mặc dù đã hơn 01 năm kể từ ngày ông sở hữu con dê trên. Nếu người chủ dê có đầy đủ bằng

chứng chứng minh đây là gia súc của mình thì ông phải trả lại con dê bị thất lạc trên.

► Căn cứ vào Khoản 2 Điều 231 Bộ luật dân sự 2015 quy định như sau về trường hợp

phân chia gia súc được sinh ra trong thời gian bị thất lạc:

“ Trường hợp chủ sở hữu được nhận lại gia súc bị thất lạc thì phải thanh toán giao dịch tiền công nuôi giữ và những ngân sách khác cho người bắt được gia súc. Trong thời hạn nuôi giữ gia súc bị thất lạc, nếu gia súc có sinh con thì người bắt được gia súc được hưởng 50% số gia súc sinh ra hoặc 50 % giá trị số gia súc sinh ra và phải bồi thường thiệt hại nếu có lỗi cố ý làm chết gia súc. ”

2. Hướng giải quyết:

  • Tuy nhiên, người chủ dê khi nhận lại dê phải thanh toán tiền công nuôi dưỡng và các chi phí khác cho ông D, đồng thời ông D sẽ được giữ lại một nửa số dê con được sinh ra. Nếu không thể phân chia do số dê con là số lẻ [3 con], cả hai người có thể

    thỏa thuận phân chia bằng số tiền tương đương.

  • V. Xác lập quyền sở hữu đối với gia cầm bị thất lạc [Điều 232 BLDS 2015]*

Trong trường hợp này, ông H không cần không phải hoàn trả lại số trứng mà ông còn có quyền nhu yếu chị L thanh toán giao dịch tiền công nuôi giữ và những ngân sách khác có tương quan .

VI. Xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước [ Điều 233 BLDC 2015]

Nhà ông M và ông Q đều có ao, hai ao sát nhau để nuôi trồng thủy hải sản. Ao nhà ông M chuyên nuôi tôm, còn ao nhà ông B chuyên nuôi cá, mọi người trong xóm đều biết việc này, tuy nhiên, sau trận mưa lớn dẫn đến ngập lụt, tôm từ ao nhà ông M nhảy tràn sang ao nhà ông Q. Thấy ao nhà mình tự dưng có nhiều tôm, ông Q đã bắt tôm đem bán không chần chừ, ông M sau khi biết chuyện đã nhu yếu ông Q trả lại số tôm đã bắt. Ông Q không đồng ý chấp thuận vì tôm ở ao ai thì của người đó dẫn đến xích míc, xung đột giữa ông M và ông Q. Việc ông Q đem bán số tôm đã nhảy tràn qua có hợp pháp hay không ?

1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn:

Mâu thuẫn giữa Nhà ông M và ông Q là xích míc tôm từ ao nhà ông M nhảy tràn sang ao nhà ông Q do bị mưa lớn và ngập lụt .

2. Căn cứ pháp lý:

Điều 233 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi
dưới nước:

Xem thêm: Bộ luật Dân sự 2015, Luật số 91/2015/QH13 mới nhất 2021

“ Khi vật nuôi dưới nước của một người vận động và di chuyển tự nhiên vào ruộng, ao, hồ của người khác thì thuộc sở hữu của người có ruộng, ao, hồ đó. Trường hợp vật nuôi dưới nước có tín hiệu riêng không liên quan gì đến nhau để hoàn toàn có thể xác lập vật nuôi không thuộc sở hữu của mình thì người có ruộng, ao, hồ đó phải thông tin công khai minh bạch để chủ sở hữu biết mà nhận lại. Sau 01 tháng, kể từ ngày thông tin công khai minh bạch mà không có người đến nhận thì quyền sở hữu vật nuôi dưới nước đó thuộc về người có ruộng, ao, hồ. ”

3. Hướng giải quyết:

Vì tình làng nghĩa xóm nên hòa giải viên sẽ thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, xích míc, xung đột. Đề nghị ông Q phải hoàn trả lại số tôm đã bắt từ ao của nhà ông M nhảy tràn sang ao nhà ông Q. Không những thế mà ông Q còn phải bồi thường thiệt hại về số tôm mà ông đã đem bán. → Vậy nên, việc ông Q đem bán số tôm đã nhảy tràn qua là không hợp pháp và phải chịu bồi thường thiệt hại về số tôm đã bán theo pháp luật của pháp lý .

THE END!

Source: //tuvi365.net
Category: THƯ VIỆN LUẬT

Video liên quan

Chủ Đề