Vì sao con người là sản phẩm của lịch sử

Đáp án chính xác và giải thích chi tiết, dễ hiểu cho câu hỏi: “Con người là sản phẩm của:” kèm kiến thức tham khảo bổ trợ hay nhất là tài liệu học tập hay và hữu ích dành cho các bạn học sinh. Cùng Top lời giải ôn tập tốt nhé!

Trắc nghiệm: Con người là sản phẩm của:

A. Xã hội

B. Giới tự nhiên

C. Lịch sử

D. Đấng sáng tạo

Trả lời:

Đáp án đúng: B. Giới tự nhiên

Con người là sản phẩm của giới tự nhiên.

Kiến thức vận dụng để trả lời câu hỏi

1. Con người là gì ?

Con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội. Về mặt sinh học, con người thuộc lớp động vật có vú, có dáng đứng thẳng, có đôi bàn tay là công cụ nhận thức và lao động, có bộ óc người phát triển cực kì cao và tinh vi. Là thực thể sinh vật, con người chịu sự chi phối của quy luật tự nhiên.

Nhưng cái sinh vật trong con người không thuần túy là cái sinh vật cái tự nhiên mà nó bị cái xã hội quy định một cách trực tiếp. C. Mác viết: “Con người không phải chỉ là thực thể tự nhiên. Nó là thực thể tự nhiên có tính người”.

Về mặt xã hội, con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của các quan hệ xã hội, có khả năng kế thừa nền văn minh nhân loại. Do đó, sự phát triển của con người chủ yếu bị chi phối bởi quy luật xã hội. Con người là một chủ thể có ý thức và đây chính là điểm khác nhau cơ bản nhất giữa con người với con vật. Về vấn đề này Mác đã viết: “con người chỉ khác con vật ở hiện tượng duy nhất là trong con người có ý thức thay thế bản năng”. Cũng có thể định nghĩa con người là một thực thể sinh vật – xã hội và văn hóa.

2. Con người là chủ thể của lịch sử

a. Con người sáng tạo ra lịch sử của mình:

– Con người tự tìm ra được công cụ lao động .

– Chỉ có con người biết sử dụng công cụ lao động . Nhờ công cụ lao động mà con người tự tách mình ra khỏi thế giới loài vật .Từ đó lịch sử loài người đựơc bắt đầu

b. Con người là chủ thể sáng tạo ra giá trị vật chất tinh thần cho xã hội:

– Để tồn tại và phát triển con ngươi phải lao động sản xuất ra của cải vật chất để nuôi sống xã hội.

– Sản xuất ra của cải vật chất là đặc trưng riêng chỉ có ở con người.

+ Là kết quả của quá trình LĐ và sáng tạo của con người.

+ Ví dụ:

– Lương thực,thực phẩm, tư liệu sinh hoạt…

– Đời sống LĐ của con người là nguồn đề tài vô tận của các giá trị văn hóa, tinh thần.

– Con người là tác giả của các công trình văn hóa, nghệ thuật. Ví dụ: Các kì quan thế giới: Ở Việt Nam: Nhã nhạc cung đình Huế, Di tích Hoàng thành Thăng Long, Thành nhà Hồ, Di tích Tràng An, Vịnh Hạ Long…

c. Con người là động lực của các cuộc cách mạng xã hội.

– Nhu cầu về một cuộc sống tốt đẹp hơn là động lực thúc đẩy con người không ngừng đấu tranh để cải tạo xã hội, mọi cuộc cách mạng xã hội đều do con người tạo ra.

– Ví dụ: từ CXNT → CHNL → PK → TBCN → XHCN.

3. Con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội

a.Vì sao con người là mục tiêu phát triển xã hội?

- Ngay từ vừa mới thoát khỏi thế giới động vật, con người đã luôn khát khao vươn tới cuộc sống tự do, hạnh phúc và luôn đấu tranh để hoài bão, ước mơ đó được thực hiện.

- Trong quá trình phát triển của lịch sử, những thành tựu khoa học kỉ thuật đem lại cho con người cuộc sống ngày càng tiến bộ hơn, đồng thời cũng dẫn đến những vấn đề lớn mang tính chất toàn cầu, đe dọa cuộc sống con người.

- Ví dụ: Vấn đề tài nguyên, môi trường, bệnh tật hiểm nghèo, khủng bố

→ Tóm lại: Con người là chủ thể của lịch sử nên con người phải được coi trọng, mục tiêu phát triển của xã hội phải là mục tiêu nhằm phục vụ con người, đảm bảo các quyền và lợi ích chính đáng và phải vì hạnh phúc của con người.

b.Chủ nghĩa xã hội với sự phát triển toàn diện con người

- Công xã nguyên thủy:

+ So sánh các chế độ xã hội

+ Mức sống thấp, con người phụ thuộc tự nhiên

- Chiếm hữu nô lệ: Cuộc sống khó khăn, con người bị áp bức, bóc lột

- Phong kiến: Cuộc sống có phát triển nhưng chậm, ý thức dân tộc, thế giới, con người bị áp bức, bóc lột.

- Tư bản chủ nghĩa: Kinh tế phát triển, đời sống được nâng cao, vẫn còn tư hữu, có áp bức, bóc lột

- Xã hội chủ nghĩa: Kinh tế phát triển, chế độ công hữu, con người được tự do phát triển

→ Nhận xét: Xã hội loài người trải qua 5 hình thái xã hội nhưng chỉ có chế độ xã hội chủ nghĩa mới thực sự coi con người là mục tiêu phát triển của xã hội và mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội là vì tự do, hạnh phúc cho con người.

Xem thêm:

>>> Sự thông thái của con người

4. Giải thích quan điểm: Con người và xã hội loài người là sản phẩm của giới tự nhiên.

Kết quả nghiên cứu khoa học cho thấy: Loài người có nguồn gốc từ loài động vật và là kết quả phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Lao động và hoạt động xã hội đã dần tạo nên mặt xã hội trong con người. Nhờ vậy con người đã tách khỏi đời sống bản năng của động vật. Triết học Mac – Lênin đã khẳng định: Con người không phải được tạo ra bằng sức mạnh thần bí nào nà “tự bản thân con người là sản phẩm của giới tự nhiên, con người tồn tại trong môi trường tự nhiên cùng phát triển với môi trường tự nhiên”.

Xã hội là kết quả phát triển tất yếu của giới tự nhiên: Sự ra đời của con người và xã hội loài người là một quá trình tiến hóa lâu đai. Xã hội loài người từ khi ra đời đến nay đã tuần tự phát triển từ thấp đến cao. Mọi sự biến đổi của xã hội do hoạt động của con người, sự hợp lực của quần chúng nhân dân tạo nên chứ không phải do một thế lực thần bí nào tạo nên.

Có con người mới có xã hội, mà con người là sản phẩm của giới tự nhiên cho nên, xã hội là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên.

[Last Updated On: 11/02/2022 By Lytuong.net]

Trong lịch sử triết học trước Mác, các quan niệm về con người, cơ bản là những quan niệm duy tâm, tôn giáo hoặc siêu hình. Mặc dù, triết học duy vật trước Mác coi con người là một thực thể tự nhiên – thực thể xã hội. Song họ cũng không vượt qua tính chất siêu hình và thậm chí còn là duy tâm. Bởi vì họ đã quy đặc trưng bản chất con người theo khuynh hướng tuyệt đối hóa những thuộc tính tự nhiên hoặc thuộc tính xã hội, mà không thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn xã hội.

Trong hệ thống thế giới quan tôn giáo coi con người như một thực thể nhị nguyên, là sự kết hợp tinh thần và thể xác. Trong đó linh hồn của con người tồn tại một cách vĩnh cửu và mang tính tuyệt đối. Tuy nhiên, một số trường phái triết học vẫn đạt được những thành tựu trong việc phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính, xác lập các giá trị nhân bản học để hướng con người tới tự do. Đó cũng chính là những tiền đề có ý nghĩa cho việc hình thành tư tưởng về con người trong triết học Mácxít.

Con người – thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội

Tiếp thu một cách mang tính phê phán những quan điểm có tính hợp lý và khắc phục những thiếu sót hạn chế quan niệm về con người trong lịch sử triết học trước đó, triết học Mác khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Bởi vì, con người không phải là cái gì đó đồng nhất tuyệt đối về chất, – đó là sự đồng nhất bao hàm trong mình sự khác biệt giữa hai yếu tố đối lập nhau: con người với tư cách là sản phẩm của giới tự nhiên, là sự phát triển tiếp tục của giới tự nhiên, mặt khác con người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối lập với giới tự nhiên, sự tác động qua lại giữa cái sinh học và cái xã hội tạo thành con người.

Trước hết, con người là sản phẩm của lịch sử tự nhiên. Đó là quá trình tạo thành phương diện sinh học và khả năng thoả mãn những nhu cầu sinh học như : ăn, mặc, ở; hoạt động và nhu cầu tái sản sinh con người. Như vậy, con người trước hết là một tồn tại sinh vật, con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu tố sinh học trong con người, trước hết là tổ chức cơ thể và mối quan hệ của nó với tự nhiên, là những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau thể hiện bản chất sinh học của cá nhân con người.

Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người và thế giới loài vật là mặt xã hội, là quá trình lao động của con người.

Thứ hai, con người còn là sản phẩm của lịch sử xã hội và chính lao động là nhân tố giữ vai trò quyết định cho quá trình hình thành con người, khẳng định con người có tính xã hội. Trong lịch sử triết học trước Mác đã có nhiều quan niệm khác nhau phân biệt con người với thế giới loài vật, như con người là động vật biết sử dụng công cụ lao động, hoặc con người có tư duy, v.v… Nhưng, nhưng quan niệm đó cũng chỉ nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người.

Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến toàn bộ giới tự nhiên: “con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”. Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần để phục vụ đời sống của mình, hình thành phát triển ngôn ngữ và tư duy, xác lập các quan hệ xã hội.

Thứ ba, mối quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, không chỉ khẳng định nguồn gốc, bản chất sinh vật và xã hội của con người; mà còn khẳng định vai trò quyết định của hệ thống các quy luật khách quan đối với quá trình hình thành và phát triển của con người. Đó là hệ thống các quy luật tự nhiên như là quy luật môi trường, quy luật trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa, v.v… quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý, ý thức hình thành vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí, v.v… hệ thống các quy luật xã hội quy định các quan hệ xã hội giữa người với người.

Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm mặt sinh vật và mặt xã hội. Bởi vì, con người chỉ có thể tồn tại khi thỏa mãn những nhu cầu sinh học, nhưng không phải bất cứ một sản phẩm vật chất nào cũng có sẵn trong tự nhiên mà chủ yếu đều do quá trình sáng tạo của con người thông qua lao động. Xã hội không phải là một thực thể tồn tại độc lập bên ngoài mặt sinh học, cũng không có cái xã hội và cái sinh học thuần túy tồn tại độc lập với nhau, chúng có quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau trong các quan hệ xã hội. Bởi xã hội là phương thức cho con người thoả mãn tốt hơn những nhu cầu sinh học ngày càng có tính hợp lý và văn minh hơn. Chính vì vậy, con người ngày càng quan tâm đến quá trình cải tạo hiện thực khách quan, cũng như chính lợi ích của cá nhân, tập thể, giai cấp hay của toàn bộ xã hội, không phải do ý thức chủ quan của con người mà do chính điều kiện khách quan và các quy luật khách quan quy định.

Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội.

Con người khác với thế giới loài vật về bản chất 3 phương diện: Quan hệ với thiên nhiên, quan hệ với xã hội, quan hệ với bản thân. Sự khác biệt ấy thể hiện con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội hoặc bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội. Bởi vì, cả ba mối quan hệ ấy, suy đến cùng đều mang tính xã hội giữa người và người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác của con người.

Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng Luận cương về Phoiơbách: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.

Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly khỏi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người là cụ thể, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Trong điều kiện lịch sử, cụ thể đó bằng hoạt động thực tiễn, con người sản xuất ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại, phát triển về thể lực và trí lực. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội như gia đình, giai cấp, dân tộc, v.v… con người mới bộc lộ bản chất xã hội của mình.

Điều lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội, không có nghĩa phủ nhận mặt tự nhiên trong cuộc sống con người; trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người và thế giới động vật ở bản chất xã hội và đó cũng là để khắc phục sự thiếu sót của các nhà triết học trước Mác về bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy luật chứ không phải là cái duy nhất; do đó cần phải thấy được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân trong cộng đồng xã hội

Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.

Con người là sản phẩm phát triển của tự nhiên và lịch sử phát triển của xã hội. Song, điều quan trọng hơn cả là con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử xã hội. Với tính cách chủ thể của lịch sử, thông qua hoạt động thực tiễn, con người biến đổi giới tự nhiên, biến đổi xã hội và bản thân mình.

Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Hoạt động sản xuất vật chất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức dẫn đến sự biến đổi xã hội. Đó là quá trình con người nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan để khẳng lịch sử vận động phát triển của xã hội là lịch sử của phát triển của các phương thức sản xuất vật chất khác nhau, v.v…

Không có con người trừu tượng, con người là cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử và bản chất của con người trong tính hiện thực của nó là tổng hòa những mối quan hệ xã hội. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở tương ứng với điều kiện lịch sử của con người. Cho nên, có thể nói rằng, sự vận động và phát triển của lịch sử sẽ quy định tương ứng với sự vận động và phát triển của bản chất con người thông qua những mối quan hệ xã hội trong lịch sử.

Video liên quan

Chủ Đề