Trường phái trừu tượng tiếng Anh
For faster navigation, this Iframe is preloading the Wikiwand page for Nghệ thuật trừu tượng.
Text is available under the CC BY-SA 4.0 license; additional terms may apply. Images, videos and audio are available under their respective licenses.
Thanks for reporting this video! Please help us solve this error by emailing us at Let us know what you've done that caused this error, what browser you're using, and whether you have any special extensions/add-ons installed. Thank you! SƠ LƯỢC Nghệ thuật Trừu tượng (Abstract) là trào lưu hội họa đầu thế kỷ XX, vào những năm 1910 đến 1914. Nghệ thuật trừu tượng không thể hiện đối tượng một cách hiện thực như mắt nhìn thấy mà biểu thị những ý nghĩ, cảm xúc của nghệ sĩ về một vài nét nào đó của đối tượng. Trong nghệ thuật tạo hình, trừu tượng là sự phát huy yếu tố biểu đạt của đường nét, hình khối, màu sắc để thể hiện ý tưởng hay cảm xúc. Trừu tượng cũng tồn lại nhiều dạng: trừu tượng hình học, trừu tượng sáng tạo, trừu tượng biểu hiện... Nghệ thuật Trừu tượng xuất hiện ban đầu ở nhiều quốc gia châu Âu như Pháp, Đức, Hà Lan, Nga. Về sai nó trở thành một trào lưu quốc tế và đạt đỉnh cao vào giữa thế kỷ XX. Hội họa trừu tượng giống như sự kết hợp của Lập thể và Dã thú, lập thể về hình khối và dã thú về màu sắc. Trừu tượng có thể xem như hệ quả tất yếu của Lập thể. Khi trường phái Lập thể đi đến thoái trào, nhiều họa sĩ Lập thể chuyển sang vẽ trừu tượng. Trong đó hai họa sĩ chuyển hướng đầu tiên là Robert Delaunay và Frank Kupka. Simultaneous Windows, 1912 (Robert Delaunay) Về mặt kỹ thuật, tiền bối của trường phái này chính là Trường phái Siêu thực, nổi bật về sự sáng tạo tự sinh và vô thức hay tiềm thức. Bức vẽ với những chấm màu lem nhem trên vải dầu để giữa sàn nhà của Jackson Pollock đã trở thành 1 phương pháp và là nguồn gốc cho những tác phẩm của André Masson, Max Ernst và David Alfaro Siquerios. Một biểu hiện quan trọng ban đầu khác để hình thành nên một trường phái như vậy là tác phẩm của hoạ sĩ vùng tây bắc nước Mỹ - Mark Tobey, đặc biệt là những bức tranh sơn dầu "white-writing" tuy không có kích thước lớn nhưng đã cho thấy trước được cái nhìn "mọi mặt" từ bản vẽ ướt của Pollock.Tên gọi của trường phái bắt nguồn từ sự hoà hợp giữa cảm xúc mãnh liệt,sự tiết xác của trường phái nghệ thuật Đức và óc thẩm mỹ chống sự bóng bẩy, hoa văn của những trường phái nghệ thuật trừu tượng phương Tây như chủ nghĩa tương lai,Bauhaus và trường phái Lập thể nhân tạo. Thêm nữa, nó chính là hình ảnh đại diện cho tính cách nổi loạn, vô chính phủ,cực kỳ đặc trưng và đôi khi thật hư vô. Trên thực tế, thuật ngữ này áp dụng cho bất kỳ 1 nhóm nghệ nhân nào làm việc tại New York và có phong cách sáng tác khác lạ, hoặc cho cả những tác phẩm vừa không trừu tượng vừa không biểu hiện. Trường phái "trừu tượng hành động" giàu năng lượng của Pollock khá khác biệt về mặt kỹ thuật lẫn mĩ học so với trường phái chuộng sự bóng bẩy của Willem de Kooning (qua chuỗi tác phẩm Women đầy bạo lực và kệch cỡm) và so với bảng màu trong tranh mảng màu của Mark Rothko (Rothko từ chối gọi pha cuối trong trào lưu tranh Mỹ này là trừu tượng biểu hiện và nó cũng không thường được gọi như thế).Tuy nhiên cả 3 danh hoạ đều được phân loại vào nhóm các nghệ nhân trừu tượng biểu hiện. Market at Minho,1915 ( Sonia Delaunay) Chủ nghĩa trừu tượng biểu hiện mang nhiều điểm tương đồng về văn phong nghệ thuật với các hoạ sĩ Nga giai đoạn đầu thế kỷ XX,có thể kể đến Wassily Kandinsky. Mặc dù tính tự sinh hay những ấn tượng về sự tự sinh tạo nên cá tính cho những tác phẩm thuộc phái trừu tượng biểu hiện nhưng đa số các sáng tạo đều được phác thảo một cách kỹ càng nếu vẽ ở khổ lớn. Với những bậc thầy như Paul Klee, Wassily Kardinsky, Emma Kunz và sau đó là Rothk, Barnett Newman, John McLaughlin và Agne Martin, nghệ thuật trừu tượng, một cách hết sức rõ rang, là sự bao hàm của những ý tưởng liên quan đến tâm linh,sự vô ý thức và trí óc. Trong khi trào lưu này luôn gắn liền với hội hoạ với các hoạ sĩ như Arshile Gorky, Franz Kline,Clyffort Still, Hans Hofman, Willem de Kooning, Jackson Pollock và những tên tuổi khác,thì nó cũng tích hợp trong mình các khía cạnh nghệ thuật khác như tranh cắt dán có đại diện là Anne Ryan và điêu khắc có các thành viên quan trọng như David Smith cùng vợ Dorothy Dehner, Herbert Ferber, Isamu Noguchi, Ibram Lossaw, Theodore Roszak, Phillip Pavia, Mary Cellary, Richard Stankiewicz, Louise Bourgeois và Louise Nevelson.
Chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng là một khuynh hướng của nghệ thuật thời kỳ hậu chiến tranh thế giới lần thứ hai diễn ra ở Mỹ.
Những tác phẩm của thể loại này này sử dụng những phương pháp mang tính tự nhiên, với một sự tính toán và sự biểu hiện hoàn toàn có chủ tâm – những tác phẩm như vậy được hiểu là một sự sáng tạo – không chỉ như một thứ mang tính ngẫu nhiên bất thường.
Nói đến những kỹ thuật đã được sử dụng, một kỹ thuật quan trọng đã có từ trước của chủ nghĩa Siêu thực, bằng sự đặt trọng tâm của nó vào những yếu tố mang tính tự phát, những sáng tạo thuộc về tiềm thức và sự vô thức. Những bức tranh với phong cách Dripping của Jackson Pollock biểu hiện trên tấm toan đặt nằm xuống sàn có nguồn gốc từ những tác phẩm của Max Ernst. Một gạch dấu quan trọng khác khởi nguồn cho trào lưu biểu hiện trừu tượng là những tác phẩm của Mark Tobey một nghệ sỹ thuộc miền bắc nước Mỹ, đặc biệt với những tấm toan khổ nhỏ của ông, qua đó có thể nhìn thấy trước phong cách dripping trong những bức tranh của Pollock.
.David Smith là một trong những diêu khắc gia có tầm ảnh hưởng lớn nhất ở Mỹ vào thế kỷ 20. Trong khi dòng vận động đó liên đới một cách mật thiết tới hội hoạ, và những hoạ sỹ như Arshile Gorky, Franz Kline, Clyfford Still, Hans Hofmann, Willem de Kooning, Jackson Pollock và những người khác Anne Ryan nghệ sỹ cắt dán ảnh và dĩ nhiên là những điêu khắc gia là một bộ phận của trường phái Biểu hiện trừu tượng. David Smith và vợ của ông ta Dorothy Dehner, Herbert Ferber, Isamu Noguchi, Ibram Lassaw, Theodore Roszak, Phillip Pavia, Mary Callery, Richard Stankiewicz, Louise Bourgeois, và đặc biệt Louise Nevelson là một trong những điêu khắc gia được xem như những thành viên quan trọng nhất trong dòng vận động đó. Những nhà phê bình nghệ thuật của thời kỳ hậu chiến tranh thế giới thứ 2
Những gì đã xảy ra trên tấm toan trắng đã không trở thành bức tranh nếu không có sự kiện mang tên Harold Rosenberg [7] …”Đến đây cần trích dẫn một vài đoạn trong cuốn Art story – Lê sỹ Tuấn biên dịch, về một sự đảo chiều ngoạn mục bậc nhất trong lịch sử mỹ thuật. Các nhà quan sát từ những hướng khác nhau đã bình luận về sự đổi chiều bất ngờ này.Đây là bài viết của giáo sư Quentin Bell về Mỹ thuật trong tác phẩm Cuộc khủng hoảng của nghành Cổ điển học xuất bản năm 1964:Vào năm 1914, khi được gọi bừa là kẻ theo chủ nghĩa lập thể (cubist), vị lai (Futurist) hay cách tân (modernist), nhà nghệ thuật thuộc phái hậu-Ấn tượng bị coi là một kẻ quái dị hay một gã lừa bịp. Các hoạ sỹ và điêu khắc gia được công chúng biết đến và ngưỡng một lúc ấy hết sức chống đối những cái cách cấp tiến. Tiền bạc, danh vọng, sự bảo trợ tất thảy đều về phía họ.Ngày nay, có thể nói tình huống lại đảo ngược. Các tổ chức công cộng như Hội đồng mĩ thuật, Hội đồng Anh quốc, đài truyền thanh truyền hình, các doanh nghiệp lớn, báo giới, các giáo hội, nghành điện ảnh và những nhà quảng cáo tất thảy đều đứng về cái gọi trật tên là nghệ thuật không nhượng bộ…công chúng có thể chấp nhận mọi thứ, hay ít nhất một phần công chúng rất lớn và rất có thế lực có thể làm thế…không một dạng tranh ảnh kỳ quặc nào có thể làm còn có thể chọc tức hay thậm chí làm cho các nhà phê bình ngạc nhiên…Và đây là nhà quán quân rất có thế lực của hội hoạ Hoa Kỳ đương đại, ông Harold Rosenberg, người đã tạo ra từ “hội hoạ hành động”, bình luận về quang cảnh bên kia bờ Đại tây dương. Trong một bài báo trên tờ New York ngày 6 tháng 4 năm 1963, ông suy nghĩ về cái phản ứng của công chúng đối với cuộc triển lãm đầu tiên về nghệ thuật Tiên Phong ở New York (Avant-Garde) vào năm 1913, và phản ứng của lớp công chúng mới mà ông gọi là “khán giả tiên phong” : Khán giả tiên phong mở lòng cho mọi thứ. Các đại biểu nhiệt tình của họ – các nhà bảo quản và giám đốc viện bảo tàng, giảng viên nghệ thuật, thương nhân – hối hả tổ chức triển lãm và đưa ra các nhãn hiệu giải thích bình phẩm về những tác phẩm khi sơn vẫn còn chưa khô trên mặt vải, khi nhựa còn chưa hoá cứng. Giới phê bình thì sát cánh sục sạo các phòng tranh như những tay trinh sát, sẵn sàng nhận diện nghệ thuật tương lai và đi đầu trong việc tạo dựng các tên tuổi. Các sử gia nghệ thuật đứng đó sẵn sàng với máy ảnh và sổ tay để đảm bảo cho mọi chi tiết mới mẻ được ghi chép an toàn. Truyền thống của những cái mới đã khiến tất cả các truyền thống khác thành ra tầm thường vặt vãnh…Art story p.484”
Willem De Kooning, Woman V, 1952–1953. Một ví dụ vào năm 1958, Mark Tobey “trở thành hoạ sỹ Mỹ đầu tiên kể từ sau (1895) giành giải nhất cuộc thi ở Venice Biennale. Hai tạp chí hàng đầu của Mỹ về nghệ thuật thì không quan tâm lắm. Tờ Arts chỉ nhắc đến sự kiện lịch sử đó chỉ trong mục tin tức và ARTnews (chủ bút là: Thomas B.hess) thì hoàn toàn lờ đi. Tờ New York Times và Life thì cho đăng những điểm đặc trưng.” Barnett Newman , Onement 1, 1948.Trong suốt những năm 1940 Barnett Newnam đã viết một số tiểu luận quan trọng về trào lưu hội hoạ mới của Mỹ.
tiếp nối Greenberg trong việc thúc đẩy trào lưu này, ông cho rằng đó là một phong cách mà có thể thích hợp với môi trường chính trị và những cuộc nổi loại của giới tri thức trong kỷ nguyên này.Clement Greenberg đã ra công bố về chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng và Pollock lại đặc biệt là một ví dụ mẫu mực cho giá trị thẩm mỹ của trào lưu này. Truyền cảm hứng cho những tác phẩm của Pollock trên nền tảng hình thức chủ nghĩa, một trong những tác phẩm xuất sắc nhất đương thời và là tột đỉnh của một thứ nghệ thuật nối tiếp Chủ nghĩa lập thể, bức tranh trở lên “thanh khiết hơn và tập trung hơn” nhờ vào chính bản chất cái tạo ra nó là tạo ra một biểu hiện ghi dấu trên mặt phẳng. Những tác phẩm của Pollock luôn luôn tạo thành 2 phái phê bình trái ngược nhau. Harold Rosenberg nói về sự biến đổi của hội hoạ đi tới những cảm xúc kịch tính đầy chất hiện sinh trong những của bức tranh của Pollock “những gì xảy ra trên những tấm toan của Pollock không phải là một hình ảnh mà là một sự kiện”.”khoảnh khắc lịch sử đã tới khi mà quyết định đưa ra là vẽ là – chỉ để vẽ”. Hành xử trên tấm toan là một hành xử của sự giải phóng khỏi những giá trị về chính trị, mỹ học và đạo đức.Một trong những nhà phê bình lớn tiếng về trào lưu biểu hiện trừu tượng tại thời điểm đó là nhà phê bình nghệ thuật John Canaday của tờ New York Times. Meyer Shapiro, và Leo Steinberg cùng với Clement Greenberg và Harold Rosenberg là những nhà nghiên cứu lịch sử Mĩ thuật thời kỳ hậu chiến tranh mà có quan điểm ủng hộ Biểu hiện trừu tượng. Trong suốt nữa đầu những năm sáu mươi những nhà phê bình nghệ thuật trẻ trung như Michael Fried, Rosalind Krauss and Robert Hughes đã góp phần xem xét dưới góc độ của phép biện chứng và hiện vẫn đang tiếp tục phát triển nghiên cứu xung quanh trào lưu này.
Kể từ giữa năm 1970 đã có những tranh luận của những sử gia theo chủ nghĩa xét lại rằng phong cách đó đã thu hút một sự chú ý, đầu những năm 1950, về phía CIA, những người nhìn nhận một nước Mĩ điển hình là nơi cư trú của những ý tưởng và thị trường tự do, cũng như là lời mời gọi cho cả những người theo chủ thuyết xã hội phổ biến trong những quốc gia cộng sản và địa vị thống trị của thị trường mỹ thuật Châu Âu. Cuốn sách của Frances Stonor Saunders [2], The Cultural Cold War—The CIA và the World of Arts and Letters, [3] và một số ấn bản khác như Who Paid the Piper?: CIA and the Cultural Cold War, miêu tả cách thức CIA tổ chức tài chính để khuyến khích những người theo trừu tượng chủ nghĩa như một phần của Chủ nghĩa đế quốc về văn hoá – cultural imperialism sau Công ước về Tự do văn hoá – Congress for Cultural Freedom từ 1950-67. Sau chiến tranh thế giới thứ 2 Giai đoạn hậu chiến tranh làm cho thủ phủ của của Châu Âu biến đổi với một sự cấp bách về tái thiết về phương diện kinh tế, điều kiện vật chất và tái hợp các tổ chức chính trị. Ở Paris, trước đây là thủ đô văn hoá của Châu Âu và là thủ đô nghệ thuật của thế giới, thì một thảm hoạ đối với môi trường nghệ thuật. Những nghệ sỹ hiện đại, nhà văn và nhà thơ, cũng như các nhà sưu tầm và buôn bán quan trọng, đi nhanh khỏi Châu Âu về một nơi cập bến an toàn lúc đó là nước Mĩ. Rất nhiều trong số họ thì chạy trốn ra nước ngoài, một số nghệ sỹ khác đặc biệt là Pablo Picasso, Henri Matisse và Pierre Bonnard thì vẫn trụ lại ở Pháp và vẫn sống. Pollock, Krasner, Hofmann Những năm 1940 đã đánh dấu thành tựu đã được dự báo trước của trường phái Trừu tường biểu hiện của Mĩ, hành động của những nhà cách tân lúc đó đã bao hàm của những bài học từ Henri Matisse, Pablo Picasso, Surrealism, Joan Miró, Cubism, Fauvism, và những nhà tiên phong của chủ nghĩa cách tân đi theo những bậc thầy người Mĩ vĩ đại là Hans Hofmann đến từ Đức và John D. Graham đến từ nước Nga. Tầm ảnh hưởng của Graham đối với nghệ thuật của Mĩ trong suốt những năm 1940 đặc biệt có thể nhận thấy trong những tác phẩm của Arshile Gorky, Willem de Kooning và Jackson Pollock. Những nghệ sỹ Mĩ lúc đó cũng được học hỏi nhiều từ sự xuất hiện của những gương mặt như Piet Mondrian, Fernand Léger, Max Ernst và nhóm André Breton, phòng tranh của Pierre Matisse, phòng tranh của Peggy Guggenheim – The Art of This Century, và một số nhân tố khác nữa. Hans Hofmann đặc biệt là một giáo viên bậc thầy truyền cảm và một nghệ sỹ quan trọng và có tầm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của Biểu hiện trừu tượng ở nước Mĩ. Trong số những người bảo trợ cho Hofmann là Clement Greenberg sau này trở thành người mà tiếng nói có tầm ảnh hưởng to lớn đối với hội hoạ Mỹ.
Những nghệ sỹ trừu tượng khác đi theo tinh thần của Pollock bằng tinh thần mới của họ, bằng cảm quan qua sự cách tân của Pollock, Willem de Kooning, Franz Kline, Mark Rothko, Philip Guston, Hans Hofmann, Clyfford Still, Barnett Newman, Ad Reinhardt, Richard Pousette-Dart, Robert Motherwell, Peter Voulkos và những người khác mở ra một sự đa dạng và khả năng phát huy cho mọi dạng nghệ thuật tiếp sau họ. Hãy đọc lại những tài liệu về nghệ thuật trừu tượng của những nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật Linda Nochlin,[15] Griselda Pollock [16] and Catherine de Zegher [17] họ đã bày tỏ một cách rất rõ ràng trọng đại, tuy nhiên, những nữ nghệ sỹ tiên phong đó, những người đã đưa ra những cách tân chủ đạo trong nghệ thuật hiện đại đã bị lờ đi trong dòng lịch sử của nó.
Clyfford Still , 1957-D No. 1.Trong suốt những năm 1950 những bức tranh của Still được xem là tiêu biểu cho phong cách Color Fields
, Who’s Afraid of Red, Yellow and Blue?, 1966.Tiêu biểu cho các tác phẩm sau này của Newman với những màu sắc tinh khiết và sáng chói.
wikipedia.org Bình luận về bài viết này |