Tiểu luận môn Phương pháp dạy học Tiếng Việt

Tải miễn phí bài Tiểu luận: Phương pháp dạy học các biện pháp tu từ phân môn Tiếng Việt cấp THCS, các bạn có thể tải về kham khảo miễn phí, đây là đề tài tiểu luận môn Sáng kiến kinh nghiệm được giới thiệu cho các bạn sinh viên đang tìm kiếm tài liệu, ngoài ra các bạn có thể kham khảo thêm các bài tiểu luận về Phương pháp dạy học các biện pháp tu từ và tiểu luận về phân môn Tiếng Việt cấp THCS, trên chuyên mục tiểu luận Sáng kiến kinh nghiệm.

Lưu ý: Trong quá trình viết tiểu luận Môn Sáng kiến kinh nghiệm nếu các bạn không có thời gian và cần hỗ trợ viết bài hoàn chỉnh, chất lượng tốt, các bạn có thể liên hệ với dịch vụ viết tiểu luận chất lượng qua Zalo: https://zalo.me/0932091562

II. PHẦN NỘI DUNG (Tiểu luận: Phương pháp dạy học các biện pháp tu từ phân môn Tiếng Việt cấp THCS)

            1. Cơ sở lí luận:    

          Trong quá trình dạy học môn Ngữ văn đặc biệt là dạy phân môn Tiếng Việt phần các biện pháp tu từ, tôi nhận thấy học sinh, đặc biệt là học sinh khối 6 hiểu khái niệm còn chung chung chưa đi sâu tìm hiểu giá trị biểu đạt và vận dụng chưa linh hoạt các phép tu từ này vào tìm hiểu và tạo lập văn bản, trong giao tiếp… Một số học sinh còn lẫn lộn giữa các phép tu từ với nhau dẫn đến hiểu sai, vận dụng sai.

          Để học sinh nhận biết, tìm hiểu đúng giá trị nghệ thuật và vận dụng có hiệu quả các phép tu từ này đòi hỏi người giáo viện phải hướng học sinh một cách cụ thể, tỉ mỉ gần gũi với tư duy, nhận thức của các em về cách nhận biết, cách tìm hiểu giá trị nghệ thuật cách vận dụng các phép tu từ vào nói, viết. Nghĩa là gắn với những hiểu biết từ thực tế cuộc sống và những hiểu biết cơ bản mà các em đã phân tích tìm hiểu ở phần văn bản. Như vậy quá trình dạy học phân môn tiếng Việt sẽ thu hút được sự chú ý của học sinh, học sinh sẽ nhận biết chắc hơn, hiểu sâu hơn về giá trị nghệ thuật của mỗi phép tu từ, tránh nhầm lẫn giữa phép tu từ này với phép tu từ kia. Đồng thời cũng một lần nữa củng cố thêm kiến thức về văn học, về cuộc sống và luyện cho học sinh cách viết lời văn trau chuốt, có hình ảnh, hàm súc, có tính biểu cảm cao.

          Trong chương trình Ngữ văn THCS phần Tiếng Việt có các bài học về biện pháp tu từ, nội dung sáng kiến này tôi chỉ đề cập đến những bài sau:

          Lớp 6: Bài 19, 21: So sánh

                      Bài 22:  Nhân hóa

                      Bài 23: Ẩn dụ

                       Bài 24: Hoán dụ

          Lớp 7: Bài 13: Điệp ngữ

                       Bài 14: Chơi chữ

          Lớp 8: Bài 28, 29: Lựa chọn trật tự từ trong câu ( Đảo ngữ).

          Lớp 9: SGK lớp 9 đề cập đến việc vận dụng lại các biện pháp tu từ đã học để phân tích biện pháp tu từ qua các đoạn văn, đoạn thơ. Trong  sáng kiến này tôi chỉ lựa chọn những biện pháp tu từ có khả năng áp dụng rộng rãi để phân tích, từ đó giúp người đọc hiểu được thấu đáo vấn đề. Biết vận dụng các biện pháp tu từ đó để phân tích được đoạn thơ, bài thơ.

          Trong quá trình giảng dạy vận dụng sáng kiến này, tôi thấy học sinh dễ tiếp thu kiến thức hơn, có kỹ năng hơn khi nhận diện các biện pháp tu từ.

XEM THÊM ==> DỊCH VỤ VIẾT THUÊ TIỂU LUẬN

            2. Thực trạng về dạy học các biện pháp tu từ phân môn Tiếng Việt cấp THCS

          2.1. Thuận lợi – khó khăn:

          – Thuận lợi: Đối tượng học sinh THCS ………………… đa số các em đều ngoan, có ý thức học tập tốt. Tài liệu tham khảo, dụng cụ học tương đối đầy đủ. Đặc biệt hiện nay có mạng In- tơ-nét rất thuận lợi cho việc tìm và tham khảo tài liệu phục vụ cho việc dạy và học.

          – Khó khăn: Một số học sinh là đồng bào dân tộc thiểu số nên việc tiếp nhận kiến thức văn học của các em còn hạn chế. Một số em kinh tế gia đình còn khó khăn nên một buổi đi học một buổi về phụ giúp gia đình chưa có thời gian dành cho việc học ở nhà, vì thế ảnh hưởng đến việc nắm bắt kiến thức.  

          2.2. Thành công và hạn chế:

          – Thành công: Khi áp dụng đề tài này các em dễ nắm bắt kiến thức, tạo cho các em hứng thú học tập, tiếp thu kiến thức về các biện pháp tu từ.

          – Hạn chế: một số học sinh còn mơ hồ, chưa nhận diện chính xác các biện pháp tu từ.

          2.3. Mặt mạnh – mặt yếu:

          – Mặt mạnh: đề tài đã đưa ra phương pháp để dạy, để các em nhận diện tiếp thu các biện pháp tu từ trong phân môn tiếng Việt cấp THCS. Ngoài ra còn có thể áp dụng tích hợp với phân môn Tập làm văn và khi học các tác phẩm Văn học .

          – Mặt yếu: Việc tiếp thu kiến thức ở mỗi học sinh khác nhau nên kết quả học tập có em đạt kết quả chưa cao.

          3.1. Mục tiêu của giải pháp:

          – Hệ thống hóa lại kiến thức về các biện pháp tu từ, chỉ ra cách phân biệt điểm giống và khác nhau giữa các biện pháp tu từ. Đồng thời đưa ra phương pháp giúp học sinh phân tích được các biện pháp tu từ trong một câu, một đoạn văn, đoạn thơ.

          – Những kiến thức được trình bày trong sáng kiến này có nội dung cơ bản về biện pháp tu từ về các bài từ lớp 6 đến lớp 9 đã nêu ở phần cơ sở lí luận và cả việc hướng dẫn các bước cụ thể để phân tích biện pháp tu từ. Căn cứ vào hướng dẫn của SGV và SGK, sáng kiến này còn có thể giúp giáo viên Ngữ văn đỡ mất thì giờ trong việc tìm tài liệu soạn bài.

          3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:

          Phương pháp dạy cụ thể:

          1.1. So sánh: là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự việc khác có nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.

          Ví dụ: Trẻ em như búp trên cành

          Bao gồm: Vế A (Trẻ em) , từ so sánh ( như), vế B ( búp trên cành)

          Giáo viên hỏi: Tại sao tác giả lại so sánh “Trẻ em” với “Búp trên cành”?

          Trẻ em và búp trên cành cũng là các sự vật đang ở giai đoạn đầu tiên của quá trình phát triển. Từ những đặc điểm về màu sắc, về trạng thái non tơ của “Búp trên cành” đã giúp người đọc liên tưởng tới đặc điểm tươi trẻ, tràn trề sức sống của trẻ em. (Tiểu luận: Phương pháp dạy học các biện pháp tu từ phân môn Tiếng Việt cấp THCS)

          Như vậy so sánh nghĩa là đem cái chưa biết, chưa rõ đối chiếu với cái đã biết để qua cái đã biết mà nhận thức, hình dung được cái chưa biết. Khi dạy bài này, bước đầu tiên giáo viên hướng dẫn học sinh phát hiện phép so sánh thông qua cấu trúc của nó. Cấu trúc của phép so sánh bao giờ cũng có hai vế: 

          – Vế A là vế nêu tên sự vật, sự việc được so sánh.

          – Vế B nêu tên sự vật , sự việc dùng để so sánh với sự vật, sự việc nói ở vế a, giữa hai vế thường có:

          – Từ ngữ chỉ phương diện so sánh

          – Từ ngữ so sánh hoặc có thể vắng từ ngữ chỉ phương diện so sánh, hoặc vắng từ ngữ so sánh , hoặc cả hai.

          Sau khi tìm hiểu giáo viên cho học sinh rút ra mô hình của phép so sánh rất đa dạng để học sinh, đặc biệt là học sinh yếu, trung bình để nhận biết. Mỗi dạng giáo viên lấy nhanh hoặc cho học sinh lấy nhanh một ví dụ để minh họa.

          Ví dụ: Dạng đầy đủ của một phép so sánh:

          Rừng đước dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận.

          Rõ ràng trong ví dụ này có đầy đủ cấu tạo của phép so sánh, giáo viên cho học sinh phát hiện các vế của một phép so sánh, phương diện so sánh, từ so sánh và điền vào mô hình sau:

Vế A

(sự vật được so sánh)

Phương diện

so sánh

Từ ngữ

so sánh

Vế B

(dùng để so sánh)

Rừng đước

(A)

dựng lên cao ngất

(x)

như

(y)

hai dãy trường thành vô tận

(B)

          Từ mô hình trên cho ta thấy một phép so sánh đầy đủ. Nếu gọi vế A là A, vế B là B, phương diện so sánh là x, từ ngữ so sánh là y, thì có thể diễn tả cách hiểu một biện pháp so sánh như sau:

          Ax = By                                    (nếu là so sánh ngang bằng)

          Ax = Bx; Ax > Bx; Ax < Bx   ( nếu là so sánh không ngang bằng)

         Từ ngữ so sánh (yếu tố y) trong cấu tạo của so sánh là những từ xác định kiểu so sánh: là, như, bằng, giống như, bao nhiêu … bấy nhiêu, v.v. (so sánh ngang bằng) hay, chẳng bằng, không bằng, hơn, kém, v.v (so sánh không ngang bằng).

Như vậy dựa vào mục đích và các từ so sánh người ta chia phép so sánh thành hai kiểu:

          – So sánh ngang bằng: Phép so sánh ngang bằng thường được thể hiện bởi các từ so sánh sau đây: là, như, y như, tựa như, giống như hoặc cặp đại từ bao nhiêu, bấy nhiêu. Ví dụ ( ví dụ này tham khảo tài liệu Dạy học Tiếng Việt THCS của tác giả Hoàng Xuân Tâm- Bùi Tất Tươm): Gió đông là chồng lúa chiêm. (Tiểu luận: Phương pháp dạy học các biện pháp tu từ phân môn Tiếng Việt cấp THCS)

          Phải biết vụ lúa chiêm gieo cấy vào đầu mùa lạnh, gặt vào đầu mùa nóng mới hiểu gió đông (phương đông chứ không phải mùa đông) vào mùa nóng quan hệ khắng khít (x) với giai đoạn trưởng thành, sinh sôi và chín rộ của lúa chiêm. Từ đó mới hiểu được hình ảnh so sánh là (y) chồng lúa chiêm (B) khi nói về gió đông (A).

          Mục đích của so sánh nhiều khi không phải là tìm sự giống nhau hay khác nhau mà nhằm diễn tả một cách hình ảnh một bộ phận hay đặc điểm nào đó của sự vật giúp người nghe, người đọc có cảm giác hiểu biết sự vật một cách cụ thể sinh động. Vì thế phép so sánh thường mang tính chất cường điệu

          Ví dụ: Cao như núi, dài như sông  (Tố Hữu)

          – So sánh không ngang bằng (so sánh hơn kém): Trong so sánhkhông ngang bằng từ so sánh được sử dụng là các từ : hơn, hơn là, kém, kém gì, chẳng bằng…

          Ví dụ: Những ngôi sao thức ngoài kia           A: những ngôi sao thức

            Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con           B: mẹ thức;

                                                                                   y: chẳng bằng:    x : ?

          Những ngôi sao thức ngoài kia chẳng vất vả bằng, chẳng có tình yêu như mẹ đã thức vì chúng con.

          Ngoài ra giáo viên còn chỉ cho các em muốn chuyển so sánh không ngang bằng sang so sánh ngang bằng người ta thêm một trong các từ phủ định: Không, chưa, chẳng… vào trong câu và ngược lại.

          Ví dụ: Trò chơi dân gian quyến rũ tôi hơn những công thức toán học.

          Trò chơi dân gian quyến rũ tôi không hơn những công thức toán học.

          Lưu ý: HS Khi phương diện so sánh (x) bị lược trong ngôn bản thì việc xác định không phải lúc nào cũng dễ, nhất là khi từ so sánh là bị lược.

          Ví dụ: Gió đông là chồng lúa chiêm.

          Phải biết vụ lúa chiêm gieo cấy vào đầu mùa lạnh, gặt vào đầu mùa nóng mới hiểu gió đông (phương đông chứ không phải mùa đông) vào mùa nóng quan hệ khắng khít (x) với giai đoạn trưởng thành, sinh sôi và chín rộ của lúa chiêm. Từ đó mới hiểu được hình ảnh so sánh là (y) chồng lúa chiêm (B) khi nói về gió đông (A). (Tiểu luận: Phương pháp dạy học các biện pháp tu từ phân môn Tiếng Việt cấp THCS)

           Như vậy căn cứ vào vấn đề phân tích và dựa vào mô hình trên cũng có thể chia ra các hình thức so sánh sau đây:

        – Yếu tố y là từ như (tựa như, chừng như …)

           Ví dụ:

                           Đôi ta làm bạn thong dong

                           Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng (Ca dao)

        – Yếu tố y là từ hô ứng bao nhiêu … bấy nhiêu.

           Ví dụ:                        

                           Qua đình ngã nón trông đình

                           Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu (Ca dao)

        – Yếu tố y là từ là.

          Ví dụ:

                           Chúng chị là hòn đá tảng trên trời

                            Chúng em chuột nhắc cứ đòi lung lay (Ca dao)

             Nếu thay là bằng như thì nội dung cơ bản không thay đổi, chỉ thay đổi về sắc thái ý nghĩa từ sắc thái khẳng định chuyển sang giả định.

         – Trong thơ ca nhờ cấu trúc cân đối và do sự cô đọng của ngôn ngữ thơ nên nhiều khi yếu tố y cũng vắng mặt.

             Ví dụ:

                                Người ngồi đó lớn mênh mông

                                Trời xanh, biển rộng, ruộng đồng, nước non. (Tố Hữu)

   Trước tiên cần xác định được đối tượng của so sánh:

           – So sánh đồng loại:

           + So sánh người với người:

            Ví dụ:  Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo

                        Khi tới trường cô giáo như mẹ hiền  (Lời bài hát)

           + So sánh vật với vật:

             Ví dụ: … trông hai bên bờ, rừng đước dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận. (Sông nước Cà Mau)

            – So sánh khác loại:

            + So sánh vật với người:             

               Ví dụ:         Ngôi nhà như trẻ nhỏ

                                 Lớn lên với trời xanh (Đồng Xuân Lan)

           + So sánh cái cụ thể với cái trừu tượng và ngược lại:

               Ví dụ:       Công cha như núi Thái Sơn

                                Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra ( Ca dao)

          Trong bài học so sánh, SGK Ngữ văn 6 tập hai  không phân biệt hai loại so sánh: so sánh lôgic và so sánh tu từ. Định nghĩa và nội dung miêu tả trong bài là so sánh tu từ, tức biện pháp tu từ so sánh.

          Trong cấu tạo biện pháp so sánh, điều quan trọng nhất là phải hiện diện cả hai vế: vế được so sánh và vế dùng để so sánh.

          Phương diện so sánh là một mặt nào đó của đối tượng muốn miêu tả bằng so sánh. Đó là nhận xét về hình thể, về một phẩm chất, về một hoạt động hay một trạng thái của đối tượng. Những điều ấy hoàn toàn có thể diễn đạt bằng một vị từ (tính từ,  động từ),  một ngữ vị từ hay bằng một cụm C-V.

         Ví dụ ( ví dụ tham khảo tài liệu Dạy học Tiếng Việt THCS của tác giả Hoàng Xuân Tâm- Bùi Tất Tươm):

           Đứa bé như cái nấm.                                     = Đứa bé lùn.

           Trăng như cái đĩa.                                         = Trăng tròn.

           Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.        = Non xanh nước biếc đẹp.

           Tay tre như những sợi tóc.                            = Tay tre nhiều và rối.

           Sông ngòi, kênh rạch như mạng nhện.          = Sông ngòi, kênh rạch bủa

                                                                                        giăng chi chít.

           Dế Choắt như một gã nghiện.                       = Dế Choắt người gầy gò và dài

                                                                                        lêu nghêu.

          Giá trị của những ví dụ về so sánh trên là ở cách chọn các đối tượng dùng để so sánh: cái nấm, cái đĩa, tranh họa đồ, những sợi tóc, mạng nhện, một gã nghiện. Các đối tượng ấy đã gợi tả rất hiệu quả tính chất, hình thể của đối tượng được so sánh: lùn, tròn, đẹp, nhiều và rối, bủa giăng chi chít, người gầy gò và dài lêu nghêu. (Tiểu luận: Phương pháp dạy học các biện pháp tu từ phân môn Tiếng Việt cấp THCS)

XEM THÊM ==> DOWNLOAD 999+ TIỂU LUẬN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

          1.2. Tác dụng của so sánh

          – So sánh tạo ra những hình ảnh cụ thể sinh động. Phần lớn các phép so sánh đều lấy cái cụ thể so sánh với cái không cụ thể hoặc kém cụ thể hơn, giúp mọi người hình dung được sự vật, sự việc cần nói tới và cần miêu tả.

          Ví dụ: Công cha như núi Thái Sơn

          Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.    (Ca dao)

          – So sánh còn giúp cho câu văn hàm súc gợi trí tưởng tượng của ta bay bổng. Vì thế trong thơ thể hiện nhiều phép so sánh bất ngờ.

          Ví dụ: Tàu dừa chiếc lược chải vào mây xanh

          Cách so sánh ở đây thật bất ngờ, thật gợi cảm. Yếu tố (3) bị lược bỏ. Người đọc người nghe tha hồ mà tưởng tượng ra các mặt so sánh khác nhau làm cho hình tượng so sánh được nhân lên nhiều lần.

          1.3. Bài tập bổ sung:  Sau khi cho học sinh nắm vững các kiến thức ta có thể cho các em làm thêm các bài tập bổ sung để giúp các em nhận diện kiểm tra được kiến thức của các em một cách chính xác hơn vì các bài tập trong SGK có thể các em dựa vào sách giải mà không nắm kiến thức.

          Bài 1. Phép so sánh sau đây có gì đặc biệt:

          Mẹ già như chuối và hương

          Như xôi nếp một, như đường mía lau.

                                                        (Ca dao)

          * Gợi ý: Chú ý những chỗ đặc biệt sau đây:

          – Từ ngữ chỉ phương diện so sánh bị lược bỏ

          Vế (B) là chuẩn so sánh không phải có một mà có ba: chuối và hương – xôi nếp mật – đường mía lau là nhằm mục đích ca ngợi người mẹ về nhiều mặt, mặt nào cũng có nhiều ưu điểm đáng quý.

          Bài 2. Tìm và phân tích phép so sánh (theo mô hình của so sánh) trong các câu thơ sau:

  1. a) Ngoài thềm rơi chiếc la đa

          Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.

                                                 (Trần Đăng Khoa)

  1. b) Quê hương là chùm khế ngọt

          Cho con chèo hái mỗi ngày

          Quê hương là đường đi học

          Con về rợp bướm vàng bay.

                                               (Đỗ Trung Quân)

          Gợi ý: Chú ý đến các so sánh

  1. a) Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng
  2. b) Quê hương là chùm khế ngọt

              Quê hương là đường đi học

          2.1. Nhân hóa: là gọi hoặc tả con vật, cây cối, đồ vật, … bằng những từ ngữ vốn được dùng để gọi hoặc tả con người.

          Ví dụ: Cây dừa

                     Sải tay

                     Bơi

                     Ngọn mùng tơi

                     Nhảy múa                         

                        (Trần Đăng Khoa)

          2.2. Tác dụng của phép nhân hoá

          Phép nhân hoá làm cho câu văn, bài văn thêm cụ thể, sinh động, gợi cảm; làm cho thế giới loài vật, cây cối, đồ vật, … trở nên gần gũi với con người, biểu thị được những suy nghĩ, tình cảm của con người.

          Ví dụ: Bác giun đào đất suốt ngày

                    Hôm qua chết dưới bóng cây sau nhà.             

                                                (Trần Đăng Khoa)

          2.3. Các kiểu nhân hóa:  Có các kiểu nhân hóa sau:

          – Dùng từ ngữ vốn gọi người ( chú, chị, cô,…) để gọi sự vật:

            Ví dụ:  Chú gà trống nhà em thật đáng yêu.

            Hoặc: Dế Choắt ra cửa, hé mắt nhìn chị Cốc. Rồi hỏi tôi :

                      – Chị Cốc béo xù đứng trước cửa nhà ta đấy hả ?

                                                                                (Tô Hoài)

          – Dùng những từ vốn chỉ hoạt động, tính chất của người để chỉ hoạt động tính chất của vật:

          Ví dụ:

          + Dùng các động từ thuộc về hoạt động của con người để miêu tả sự tồn tại và vận động của trời – núi – trăng – hoa:

                          Vì mây cho núi lên trời

                          Vì chưng gió thổi hoa cười với trăng

          + Dùng các tính từ miêu tả, các động từ hành vi của người, khoác lên cho các đối tượng không phải người:

                      Lúa đã chen vai đứng cả dậy – Trần Đăng

          Hoặc: Súng vẫn thức. Vui mới giành một nửa,

                     Nên bâng khuâng sương biếc nhớ người đi  (Tố Hữu)

           – Trò chuyện, xưng hô với vật như đối với người: (Tiểu luận: Phương pháp dạy học các biện pháp tu từ phân môn Tiếng Việt cấp THCS)

              Ví dụ:

           + Coi các đối tượng không phải là người mà như là người và tâm tình nói chuyện với chúng.

                             … Buồn trông con nhện giăng tơ

                                  Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?                                 

                                   Buồn trông chênh chếch sao mai,

                                  Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?  (Ca dao)

           + Trò chuyện với sự vật, hô-gọi sự vật như trò chuyện với con người, hô gọi con người:

                                   Núi cao chi lắm núi ơi?

                                   Núi che mặt trời chẳng thấy người thương. (Ca dao)

          Tuy nhiên khi phân tích một biện pháp nhân hóa, học sinh thường lúng túng khi xác định vế nhân hóa và vế được nhân hóa. Vế nhân hóa là vế tạo nên hiện tượng nhân hóa, đó là các từ ngữ vốn được dùng để nói về (gọi, tả, kể, nhận định) con người. Vế nhân hoá thường làm vị ngữ hay phụ ngữ miêu tả (định ngữ trang trí) cho vế được nhân hóa.

          Ví dụ:

                           Muôn nghìn cây mía múa gươm

                            Kiến hành quân đầy đường  (Trần Đăng Khoa)

          Vế nhân hóa là các từ ngữ: múa gươm, hành quân.

          Vế được nhân hóa là: muôn nghìn cây mía và kiến.

          Nhờ cách dùng múa gươm và hành quân (là các từ ngữ miêu tả hoạt động của người) mà muôn nghìn cây mía và kiến được nhân hóa.

          Do có chức năng nhận thức và chức năng biểu cảm-cảm xúc cho nên nhân hóa được sử dụng rộng rãi.

          Trong sinh hoạt hàng ngày ta thường nghe nói: điếu cày kêu (sòng sọc), con đường lượn vòng, cái bụng muốn đi (mà) cái chân không muốn bước…

          Trong lời nói nghệ thuật ta thường gặp nhân hóa: gió khóc, gió rền rĩ, trăng chiếu mơ màng, sông thì thầm mấy khúc hùng ca xưa cũ, khăn thương nhớ ai, đèn thương nhớ ai…

          Ngoài ra nhân hoá chỉ có thể được hiện thực hóa trong một ngữ cảnh nhất định:

            Ví dụ:

             Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù, tre xung phong vào xe tăng, đại bác, tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hy sinh để bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu!

                                                                                              (Thép Mới)

          2.4. Bài tập bổ sung: Tương tự như ở biện pháp so sánh ta cho các em làm những bài tập bổ sung để kiểm tra kiến thức.

          Bài 1. Tìm phép nhân hoá và nêu tác dụng của chúng trong những câu thơ sau:

                      Trong gió trong mưa

                       Ngọn đèn đứng gác

                       Cho thắng lợi, nối theo nhau

                       Đang hành quân đi lên phía trước

                                      (Ngọn đèn đứng gác- Chính Hữu)

          Gợi ý:

          Chú ý cách dùng các từ vốn chỉ hoạt động của người như: Đứng gác, nối theo nhau, hành quân, đi lên phía trước.

          Bài 2: Xác định phép nhân hóa và cho biết nó thuộc kiểu nhân hóa nào?

                    Khăn thương nhớ ai

                    Khăn rơi xuống đất ?

                    Khăn thương nhớ ai

                    Khăn vắt trên vai

                                       (Ca dao)

                    Em hỏi cây kơ nia

                    Gió mày thổi về đâu

                    Về phương mặt trời mọc…

                                        (Bóng cây kơ nia)

          Gợi ý: Trò chuyện tâm sự với vật như đối với người

            3. Ẩn dụ:

          3.1. Ẩn dụ: là gọi tên sự vật hiện tượng này bằng tên sự vật hiện tượng khác có nét tương đồng với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.

          Khi dạy bài này, giáo viên cần phân tích làm rõ mối quan hệ gữa ẩn dụ và so sánh đã học ở tiết trước để học sinh dễ hình dung. Ẩn dụ thực chất là một kiểu so sánh ngầm trong đó yếu tố so sánh giảm đi chỉ còn yếu tố làm chuẩn so sánh được nêu lên. Muốn có phép ẩn dụ thì giữa hai sự vật hiện tượng được so sánh ngầm phải có nét tương đồng quen thuộc nếu không sẽ trở nên khó hiểu.

          Ẩn dụ là một loại so sánh ngầm, trong đó ẩn đi sự vật, sự việc được so sánh (Vế A) , phương diện so sánh, từ so sánh chỉ còn sự vật, sự việc được dùng so sánh (Vế B) Vậy muốn tìm được phép ẩn dụ và hiểu được cái hay, hàm súc của ẩn dụ thì phải xuất phát từ từ ngữ ẩn dụ (Vế B) để tìm đến vế A (Sự vật, sự việc được so sánh) . Thông thường học sinh chỉ tìm được phép ẩn dụ mà ít tìm được giá trị nghệ thuật của nó, nếu tìm được cũng chỉ sơ sài, chung chung, nhiều khi còn sai lệch về nội dung. Để khắc phục được điều đó, giáo viên cần hướng dẫn học sinh hiểu được các phép ẩn dụ. (Tiểu luận: Phương pháp dạy học các biện pháp tu từ phân môn Tiếng Việt cấp THCS)

          Ví dụ: Thuyền về có nhớ bến chăng ?

                    Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.

          Bến được lấy làm ẩn dụ để lâm thời biểu thị người có tấm lòng thuỷ chung chờ đợi, bởi những hình ảnh cây đa, bến nước thường gắn với những gì không thay đổi là đặc điểm quen thuộc ở những có người có tấm lòng thuỷ chung.

          Ẩn dụ chính là một phép chuyển nghĩa lâm thời khác với phép chuyển nghĩa thường xuyên trong từ vựng. Trong phép ẩn dụ, từ chỉ được chuyển nghĩa lâm thời mà thôi.

          Ví dụ:

                          Giá đành trong nguyệt trên mây

                          Hoa sao hoa khéo đọa đày thân hoa.

                                                                      (Nguyễn Du, Truyện Kiều)

          Hoa (B) mang ý nghĩa ẩn dụ, chỉ người phụ nữ có nhan sắc (A).

          3.2. Tác dụng của ẩn dụ

          Ẩn dụ làm cho câu văn thêm giàu hình ảnh và mang tính hàm súc. Sức mạnh của ẩn dụ chính là mặt biểu cảm. Cùng một đối tượng nhưng ta có nhiều cách thức diễn đạt khác nhau. (thuyền – biển, mận – đào, thuyền – bến, biển – bờ) cho nên một ẩn dụ có thể dùng cho nhiều đối tượng khác nhau. Ẩn dụ luôn biểu hiện những hàm ý mà phải suy ra mới hiểu. Chính vì thế mà ẩn dụ làm cho câu văn giàu hình ảnh và hàm súc, lôi cuốn người đọc người nghe.

          Ví dụ: Trong câu : Người Cha mái tóc bạc. 

          Nếu thay Bác Hồ mái tóc bạc thì tính biểu cảm sẽ mất đi.

          3.3. Các kiểu ẩn dụ: Vì ẩn dụ có ý nghĩa hàm súc nên có thể phân 4 kiểu, dạng ẩn dụ thường gặp:

         – Ẩn dụ hình thức được hình thành trên cơ sở nét tương đồng về hình thức giữa các đối tượng. Con đường hình thành ẩn dụ hình thức có thể xuất phát từ nét tương đồng giữa hình thức của sự vật, hiện tượng và con người

          Ví dụ: Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông

                                   (Nguyễn Du, Truyện Kiều)

          Ở đây, tất nhiên không có ngọn lửa nào. Chữ lửa (B) trong văn cảnh dùng để biểu thị màu đỏ của hoa lựu (A). Có thể chưa trông thấy hoa lựu bao giờ, chưa biết hoa lựu màu đỏ, nhưng đọc câu thơ trên vẫn có thể suy ra như vậy, vì có thành ngữ quen thuộc “đỏ như lửa”. Câu thơ gợi được một cảnh thật rực rỡ: đầu tường, màu đỏ của hoa lựu tạo nên những bông hoa lửa lập lòe! Chính cách dùng ẩn dụ lửa lựu của Nguyễn Du làm cho ta cảm nhận những bông hoa lửa từ màu đỏ của hoa lựu.

          – Ẩn dụ cách thức được hình thành trên cơ sở nét tương đồng về cách thức hành động giữa các đối tượng. Ẩn dụ cách thức đã đem lại cho người đọc bao cảm xúc sâu xa.

          Ví dụ: Về thăm nhà Bác làng sen,

                  Có hàng râm bụt thắp lên lửa hồng

                                             (Nguyễn Đức Mậu)

          Nhìn “hàng râm bụt” với những bông hoa đỏ rực tác giả tưởng như những ngọn đèn “thắp lên lửa hồng”. Hành động thắp ở đây ý chỉ hoa nở.

        – Ẩn dụ phẩm chất (dựa vào sự tương đồng về phẩm chất giữa các sự vật hiện tượng). Hay nói cách khác: có thể được dùng theo lối chuyển nghĩa lấy tên gọi chung thay tên riêng hoặc lấy tên riêng thay tên chung.

           Ví dụ: Anh đội viên nhìn Bác

                     Càng nhìn lại càng thương

                     Người cha mái tóc bạc

                     Đốt lửa cho anh nằm         ( Đêm nay Bác không ngủ – Minh Huệ)

          Lấy hình tượng Người Cha để gọi tên Bác Hồ.

          – Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác (dựa vào sự tương đồng về cảm giác). Hay nói cách khác là những ẩn dụ trong đó B là một cảm giác vốn thuộc một loại giác quan dùng để chỉ những cảm giác A vốn thuộc các loại giác quan khác hoặc cảm xúc nội tâm. Nói gọn là lấy cảm giác A để chỉ cảm giác B. 

          Ví dụ: Đoạn văn “…Chao ôi, trông con sông, vui sướng thấy nắng giòn tan. Sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quảng…”

          Giáo viên có thể hỏi HS: Trong cuộc sống, từ “giòn tan” thường dùng chỉ đặc điểm cụ thể của những vật nào?

          Giòn tan: Dùng chỉ đặc điểm của những vật cứng cụ thể khi bị gãy, vỡ như bánh, gỗ, kính… Chứ không dùng để chỉ hiện tượng tự nhiên như “Nắng”.

          Giáo viên lại hỏi tiếp: Theo em, Cụm từ: “ nắng giòn tan” có gì đặc biệt so với cách nói thông thường?

          – Đây là một ẩn dụ chuyển đổi cám giác của nhà văn Nguyễn Tuân (Từ vị giác, thính giác sang thị giác).

          Hoặc Ví dụ: bài tập 3 trang 70 Ngữ văn 6 tập hai cho chúng ta những ví dụ rất tốt về ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. (Tiểu luận: Phương pháp dạy học các biện pháp tu từ phân môn Tiếng Việt cấp THCS)

Câu a) và câu b): Chảy là hoạt động của dòng chất lỏng (tiêu biểu là nước). Đối với hiện tượng chảy, ta cảm nhận bằng các giác quan: thị giác, xúc giác, thính giác (nếu dòng chảy gây tiếng động đủ nghe thấy). Trong các câu “Mùi hồi chín chảy qua mặt”, “Ánh nắng chảy đầy vai”, mùi hồi và ánh nắng, qua ẩn dụ, được cảm nhận như những dòng chất lỏng chảy mơn man trên da thịt. Mùi hồi được cảm giác chảy rất rõ với động tác ngẩng mặt lên để dòng hương chảy qua và nhất là khi có một làn gió nhẹ thổi qua cánh rừng hồi.

          * Lưu ý:  Khi dạy phép ẩn dụ, giáo viên cũng nhấn mạnh thêm: Ẩn dụ được dùng nhiều trong lời ăn tiếng nói hàng ngày làm cho lời nói hội thoại mang đậm đà màu sắc biểu cảm, cảm xúc. Ví dụ: Khi mẹ nựng con thường hay nói : cún con, cục vàng…Hoặc sử dụng nhiều ẩn dụ chuyển đổi cảm giác như: Ví dụ: Giọng chua, nói đau, màu nóng… Cho học sinh tìm thành ngữ ẩn dụ để khi cần các em biết vận dụng vào trong giao tiếp hàng ngày, trong lập văn bản để tăng thêm giá trị hàm súc cho lời nói. Ví dụ: Nuôi ong tay áo, gậy ông đập lưng ông, chuột sa chỉnh gạo, con nhà lính tính nhà quan.

          3.4. Bài tập bổ sung:

          Bài 1: Phân tích nghệ thuật ẩn dụ trong câu thơ sau:

                    “Thân em vừa trắng lại vừa tròn” (Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương)

          * Gợi ý:

          – Nghĩa đen: Bánh trôi nước về màu sắc và hình dáng

          – Nghĩa bóng : Hình ảnh về vẻ đẹp người phụ nữ có làn da trắng và thân hình đầy đặn .

          Khi phân tích ta làm như sau : Cách sử dụng nghệ thuật ẩn dụ của nhà thơ thật tài tình vì qua hình ảnh cái bánh nhà thơ đã gợi cho người đọc hình dung được một hình ảnh khác thật sâu săc kín đáo đó là hình ảnh …  (nghĩa bóng). Từ đó gợi cảm xúc cho người đọc về người phụ nữ xưa …

          Bài 2: Chỉ ra biện pháp tu từ và phân tích giá trị biểu cảm trong hai câu thơ  sau:

                      Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

                     Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ   (Viễn Phương – Viếng lăng Bác)

           * Gợi ý:  

          – Phép tu từ ẩn dụ: Mượn hình ảnh mặt trời để chỉ Bác Hồ

          – Cách sử dụng nghệ thuật ẩn dụ của nhà thơ thật tài tình vì qua hình ảnh “mặt trời” là một vầng thái dương “nghĩa đen”, tác giả tạo ra một hình ảnh so sánh ngầm sâu sắc, tế nhị làm cho người đoc suy nghĩ và hình dung ra được hình ảnh của Bác Hồ (nghĩa bóng) một con người rực rỡ và ấm áp như mặt trời dẫn dắt dân tộc ta trên con đường giành tự do và độc lập xây dựng tổ quốc công bằng dân chủ văn minh từ đó tạo cho người đọc một tình cảm yêu mến khâm phục vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc chúng ta.

            4. Hoán dụ:

          4.1. Hoán dụ: là gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm bằng tên của một sự vật, hiện tượng, khái niệm khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt. Ví dụ: Đầu bạc tiễn đầu xanh (Người già tiễn người trẻ: dựa vào dấu hiệu bên ngoài).

          Trong SGK chỉ ra bốn kiểu hoán dụ, tuy nhiên trong thực tế ta phải hiểu rằng có hai kiểu hoán dụ lớn là hoán dụ từ vựng và hoán dụ tu từ (trong đó hoán dụ tu từ được phân ra thành nhiều loại nhỏ), các kiểu hoán dụ trong SGK là hoán dụ tu từ.    Trong quá trình dạy giáo viên có thể chú ý thêm cho học sinh về điều này hoặc có thể nắm kĩ hơn để khỏi nhầm lẫn.

          Hoán dụ từ vựng: là trường hợp đơn giản nhất của hoán dụ, trong đó tên gọi của một khách thể thường là tên riêng, được chuyển sang chỉ một khách thể khác.

          Hoán dụ tu từ thường được cấu tạo dựa vào những mối liên hệ lôgic khách quan.

XEM THÊM 99+==> LỜI MỞ ĐẦU TIỂU LUẬN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

          4.2. Các kiểu hoán dụ: Có bốn kiểu hoán dụ thường gặp:

          – Lấy một bộ phận để gọi toàn thể:

          Ví dụ: Liên hệ giữa công cụ lao động và bản thân sức lao động hoặc kết quả của lao động:

                                     Bàn tay ta làm nên tất cả

                                     Có sức người sỏi đá cũng thành cơm

                                                                                 (Hoàng Trung Thông)

          Bàn tay ( công cụ kì diệu của lao động) làm liên tưởng đến sức sáng tạo phi thường của sức lao động. (Tiểu luận: Phương pháp dạy học các biện pháp tu từ phân môn Tiếng Việt cấp THCS)

          Hoặc:                Đầu xanh đã tội tình gì?

                                   Má hồng đến quá nữa thì chưa thôi

                                                                            (Nguyễn Du)

          Đầu xanh (bộ phận cơ thể) biểu thị con người ở độ tuổi trẻ trung, mới bước vào đời (toàn thể). Má hồng (bộ phận cơ thể) biểu thị người đàn bà sống kiếp lầu xanh (toàn thể)

          – Lấy vật chứa đựng để gọi vật bị chứa đựng:

          Ví dụ: Áo nâu liền với áo xanh

                    Nông thôn cùng với thị thành đứng lên.

                                                            (Tố Hữu)

          Hai câu thơ này nhà thơ Tố Hữu viết về người lao động của nước ta thời kì Cách mạng tháng 8. Thời ấy, y phục đặc trưng của người nông dân là áo nâu, của người công nhân là áo xanh.

          Khi phân tích ví dụ giáo viên có thể hỏi: Các từ in đậm trong câu thơ chỉ ai ?

          Dùng áo nâu để chỉ người nông dân, áo xanh chỉ người công nhân, nông thôn chỉ những người sống ở nông thôn , thị thành chỉ những người sống ở thành thị.

          Giáo viên hỏi tiếp: Giữa áo nâu, áo xanh, nông thôn, thị thành với sự vật được chỉ có mối quan hệ như thề nào ?

          Dùng dấu hiệu, vật chứa đựng của sự vật để gọi sự vật.

          Hoặc: Vì sao trái đất nặng ân tình

                    Nhắc mãi tên người Hồ Chí Minh

                                                          (Tố Hữu)

          Trái đất (vật chứa đựng) biểu thị đông đảo nhân dân (vật được chứa đựng).

          Liên hệ giữa vật chứa đựng và vật bị chứa đựng. Trong đời sống hằng ngày ta sử dụng rất nhiều như: cả hội trường đứng dậy vỗ tay, cả làng đổ ra xem …            –

          – Lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng:

           Ví dụ: Một cây làm chẳng nên non

                    Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.

          Một, Ba chỉ số lượng cụ thể nhưng trong trường hợp này được dùng thay cho số ít và số nhiều.                                 

          Hoặc:  Kháng chiến ba ngày đêm không nghỉ

                     Bắp chân đầu gối vẫn săn gân

                                                         (Tố Hữu)

          Bắp chân đầu gối vẫn săn gân (cụ thể) biểu thị tinh thần kháng chiến dẻo dai.

          Mục đích chủ yếu của hoán dụ là nhấn mạnh vào một dấu hiệu, một thuộc tính nào đó của đối tượng được nói đến (dấu hiệu hoặc thuộc tính được dùng làm cái đại diện, cái thay thế cho đối tượng). Còn chức năng chủ yếu của hoán dụ là nhận thức và biểu cảm – cảm xúc. Nó khắc sâu đặc điểm tiêu biểu cho đối tượng được miêu tả. Nó được dùng rộng rãi trong lời nói nghệ thuật và trong nhiều phong cách.

          – Lấy dấu hiệu của sự vật để gọi sự vật:

                    Ngày Huế đổ máu

                    Chú Hà nội về

                    Tình cờ chú cháu

                    Gặp nhau Hàng Bè.

                                       ( Tố Hữu)

          Đổ máu là dấu hiệu của chiến tranh”. Có thể hiểu Ngày Huế đổ máu là ngày Huế nổ ra chiến sự.

          Hoặc: Áo chàm đưa buổi phân li

                    Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

          Áo chàm ( y phục) ở đây dùng để chỉ người Việt Bắc.

          4.3. Bài tập bổ sung: Tìm và phân tích các hoán dụ trong các ví dụ sau:

          – Chồng ta áo rách ta thương

           Chồng người áo gấm xông hương mặc người.            

                                                        (Ca dao)

          –  Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá… (Chế Lan Viên)

          – “ áo rách” là hoán dụ lấy quần áo (áo rách) để thay cho con người (người nghèo khổ). Còn“áo gấm” cũng là hoán dụ lấy quần áo (áo gấm) để thay cho con người( người giàu sang, quyền quí).

          – “Viên gạch hồng” là hoán dụ lấy đồ vật (viên gạch hồng) để biểu trưng cho nghị lực thép, ý chí thép của con người. (Bác Hồ vĩ đại). Còn “ Băng giá” là hoán dụ lấy hiện tượng tiêu biểu (cái lạnh ở Pa-ri) để gọi thay cho mùa (mùa đông).

          * Lưu ý: Khi dạy các biện pháp tu từ ở lớp 6, tôi thấy các em đa số còn chưa phân biệt sự giống nhau và khác nhau giữa các biện pháp tu từ. Sau đây là một số kỹ năng giúp các em phân biệt các biện pháp tu từ này: (Tiểu luận: Phương pháp dạy học các biện pháp tu từ phân môn Tiếng Việt cấp THCS)

          So sánh và ẩn dụ: Cả hai đều dựa vào sự giống nhau giữa hai đối tượng nhưng:

– Một đằng thì đặt cả hai đối tượng ra để đối chiếu (so sánh)

– Một đằng thì dùng ngay tên cái đối tượng dùng để so sánh kia mà gọi tên đối tượng được so sánh, tên thật của đối tượng được so sánh thì ẩn đi (ẩn dụ).

Ví dụ:

           So sánh                                              Ẩn dụ

Cô giáo như mẹ hiền                       Mẹ hiền ở trường của tôi […]

Tay tre như những sợi tóc              Nước gương trong soi tóc những hàng tre.

                                                                                            ( Tế Hanh)

          Hoa lựu màu đỏ như lửa                  Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông

                                                                                                      (Nguyễn Du)

           Ẩn dụ và Hoán dụ: Giữa ẩn dụ và Hoán dụ có điểm chung căn bản là chuyển đổi tên gọi: gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên gọi sự vật hiện tượng khác.

          Điểm khác biệt giữa hai phương thức là: sự chuyển đổi tên gọi ấy:

          – Trong ẩn dụ thì dựa trên cơ sở hai đối tượng giống nhau ở một phương diện nào đó. Ví dụ: Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông. (Nguyễn Du) Chữ lửa trong văn cảnh dùng để biểu thị màu đỏ của hoa lựu.

          – Còn trong hoán dụ thì dựa trên cơ sở hai đối tượng gần nhau.

          Ví dụ: Áo nâu liền với áo xanh

                    Nông thôn cùng với thị thành đứng lên.

                                                            (Tố Hữu)

          Hoặc: Đầu bạc tiễn đầu xanh (Người già tiễn người trẻ: dựa vào dấu hiệu bên ngoài).

          Tác dụng của ẩn dụ và hoán dụ đều là nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho nội dung diễn đạt. Tuy vậy, trong các biện pháp nghệ thuật này, đối tượng là chủ thể của sự tình được diễn đạt lại vắng mặt và được thay thế nên sự tiếp thu cũng đòi hỏi một ý thức, một sự gia công nhất định.

            5. Điệp ngữ:

          5.1. Điệp ngữ là khi nói hoặc viết, người ta có thể dùng biện pháp lặp lại từ ngữ (hoặc cả một câu) để làm nổi bật ý, gây cảm xúc mạnh. Cách lặp lại như vậy gọi là phép điệp ngữ; từ ngữ được lặp lại gọi là điệp ngữ.

          * Lưu ý: Chúng ta cần phân biệt giữa điệp ngữ và lỗi lặp từ:

– Lặp do kém năng lực tổ chức câu: lỗi diễn đạt.

– Lặp do có dụng ý tăng hiệu quả biểu đạt của câu: tu từ cú pháp.

          – Lặp do bệnh lí của cơ quan phát âm: nói lắp.

          – Điệp ngữ vừa để nhấn mạnh ý vừa tạo cho câu văn, câu thơ, đoạn văn, đoạn thơ giàu âm điệu, giọng văn trở nên tha thiết, nhịp nhàng hoặc hào hùng mạnh mẽ.

          Ví dụ:

          Trời xanh đây là của chúng ta

          Núi rừng đây là của chúng ta

          Những cánh đồng thơm ngát

          Những ngả đường bát ngát

          Những dòng sông đỏ nặng phù sa

          Hoặc:

          Ta muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

          Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

          Ta muốn say với cánh bướm tình yêu

          Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều.

          Tác dụng: Điệp từ “Ta” được lập lại 4 lần nhấn mạnh khát vọng cháy bỏng muốn mở lòng mình và để ôm trọn, tận hưởng cuộc sống này.

          5.2. Các loại điệp ngữ: (Tiểu luận: Phương pháp dạy học các biện pháp tu từ phân môn Tiếng Việt cấp THCS)

          + Điệp ngữ cách quãng.

          + Điệp ngữ nối tiếp.

          + Điệp ngữ chuyển tiếp (điệp ngữ vòng)

          Ta có thể căn cứ vào vị trí của các yếu tố lặp, có thể phân biệt:

         – Điệp ngữ cách quãng là dạng điệp ngữ trong đó những từ ngữ được lặp lại đứng cách xa nhau nhằm gây một ấn tượng nổi bật và có nhạc tính rất cao.

            Ví dụ: Anh đã tìm em rất lâu, rất lâu

                    Cô gái ở Thạch Kim, Thạch Nhọn

                    Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy lán sớm

                    Sách giấy mở tung trắng cả rừng chiều.                

          Đôi khi có những kiểu cách quãng chỉ một lần xuất hiện ở câu đầu văn bản và lần lặp lại ở câu cuối văn bản. Điệp cách quãng kiểu này là phương tiện để thực hiện kiểu cấu trúc văn bản có tên gọi là đầu cuối tương ứng.

         Ví dụ:             Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!

                                Cái nợ ba sinh đã trả rồi

                                Chôn chặt văn chương ba thước đất,

                                Tung hô hồ thỉ bốn phương trời

                                 ……………………………………………..

                                Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!

                                                                   (Hồ Xuân Hương)

          – Điệp ngữ tiếp nối tiếp: là dạng điệp ngữ trong đó những từ ngữ được lặp lại trực tiếp đứng bên nhau nhằm tạo nên ấn tượng mới mẻ, có tính chất tăng tiến.

          Ví dụ:                  Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

                                   Thành công, thành công, đại thành công

                                                                                (Hồ Chí Minh)

          – Điệp ngữ chuyển tiếp (điệp ngữ vòng) là một dạng điệp ngữ có tác dụng tu từ lớn. Chữ cuối câu trước được láy lại thành chữ đầu câu sau và cứ thế, làm cho câu văn, câu thơ liền nhau như đợt sóng. Người ta thường dùng nó trong thơ trữ tình để diễn tả một cảm giác triền miên.

        Ví dụ:

                                     Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

                                     Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

                                     Ngàn dâu xanh ngắt một màu,

                                     Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.

                                                                                (Đoàn Thị Điểm)  

          Với tư cách là một phương tiện tu từ cú pháp, điệp ngữ được sử dụng rộng rãi trong tất cả các phạm vi của lời nói: hành chính-công vụ, khoa học, chính luận, sinh hoạt hằng ngày và văn nghệ thuật. (Tiểu luận: Phương pháp dạy học các biện pháp tu từ phân môn Tiếng Việt cấp THCS)

            6. Chơi chữ:

          6.1. Chơi chữ: là cách lợi dụng đặc sắc về âm, nghĩa nhằm tạo sắc thái dí dỏm hài hước.

          Ví dụ: Mênh mông muôn mẫu màu mưa

                      Mỏi mắt miên man mãi mịt mờ

          6.2. Một số kiểu chơi chữ thường gặp:

          – Dùng từ đồng âm:

             Ví dụ: Bà già đi chợ Cầu Đông

              Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng? 

                     Thầy bói xem quẻ nói rằng

              Lợi thì có lợi nhưng răng không còn!

              Hoặc:

                    Hỡi cô cắt cỏ bên sông

              Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây   (Ca dao)

          Từ tên một loại nhãn nổi tiếng ngon, ngọt, mát bổ (nhãn lồng) thế mà chàng trai lém lỉnh nọ đã khéo léo vận dụng để trêu chọc cô bạn gái rằng hãy chạy tế sang đây (lồng sang sông!)  anh mới cho ăn nhãn… Ca dao xưa thật hóm hỉnh.

          – Dùng từ gần nghĩa, đồng nghĩa để chơi chữ…

                       Nửa đêm, giờ tí, canh ba

                   Vợ tôi, con gái, đàn bà, nữ nhi

          – Dùng từ  đồng nghĩa, trái nghĩa:   Trăng bao  nhiêu tuổi trăng già

                                                                      Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non.

          –  Dùng lối nói lái: Mang theo một cái phong bì

                                      Trong đựng cái gì, đựng cái đầu tiên.

              Hay:   Con gái là cái bòn…

          Các lối chơi chữ: Văn thơ trào phúng, ca dao, chèo cổ (vai hề) thường sử dụng nhiều lối chơi chữ rất độc đáo.

            7. Lựa chọn trật tự từ trong câu ( đảo ngữ):

          7.1. Lựa chọn trật tự từ trong câu ( đảo ngữ) Là biện pháp thay đổi trật tự cú pháp thông thường của câu văn.

          Ví dụ: Củi một cành khô lạc mấy dòng.

          Tác dụng: nghệ thuật đảo ngữ đưa danh từ “củi” lên đầu câu đứng trước số từ “một” để nhấn mạnh sự lẻ loi, trơ trọi của sự vật.

          7.2. Lưu ý ( tác dụng): Trong một câu có thể có nhiều cách sắp xếp trật tự từ, mỗi cách đem lại hiệu quả diễn đạt riêng. Người nói (người viết) cần biết lựa chọn trật tự từ thích hợp với yêu cầu giao tiếp. (Tiểu luận: Phương pháp dạy học các biện pháp tu từ phân môn Tiếng Việt cấp THCS)

          Việc lựa chọn trật tự từ ngữ trong câu, trước hết là do yêu cầu cú pháp. Chỉ khi tổ chức để trật tự từ thể hiện thứ tự nhất định của sự vật, hiện tượng, hoạt động, đặc điểm như thứ bậc quan trọng của sự vật, thứ tự trước sau của hoạt động, trình tự quan sát của người nói.

        Ví dụ: Trong đoạn văn (Trích Tinh thần yêu nước của nhân dân ta) của Hồ Chí Minh, có đoạn “…những trang sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, …”. Tên các vị anh hùng dân tộc kể trên phải sắp xếp như vậy, không thể khác được vì phải theo trật tự thời gian lịch sử. Nhưng nếu ở một đoạn văn khác, người viết kể ngược dòng lịch sử, thì trật tự lại phải ngược lại.

         Đôi khi cách lựa chọn trật tự từ ngữ trong câu còn nhằm mục đích liên kết câu với những câu khác trong văn bản.

        Ví dụ: Trong vở “Trưởng giả học làm sang”, nhân vật ông Giuốc-đanh đã rất mãn nguyện khi được thầy triết học dạy rằng câu ông ta dự định tán tỉnh người đàn bà quý tộc có nhiều cách nói nhưng cách hay nhất và hợp lí và có tính liên kết nhất vẫn là cách ông ta đã nói ban đầu: “ (1) Thưa hầu tước phu nhân xinh đẹp, (2) đôi mắt đẹp của nàng (3) làm tôi chết mệt vì tình!”. Moliere đã giễu ông Giốc- đanh bằng việc thay đổi đủ kiểu trật tự từ ngữ trong câu: (2) Đôi mắt đẹp của nàng, (1) thưa hầu tước phu nhân xinh đẹp, (3) làm tôi chết mệt vì tình; (3) Làm tôi chết mệt vì tình, (1) thưa hầu tước phu nhân xinh đẹp, (2) đôi mắt đẹp của nàng …

         Vị trí đầu câu là vị trí tối ưu dành cho sự nêu đề tài (khởi ngữ), nêu tình huống (trạng ngữ), nêu chủ thể (chủ ngữ của câu). Khi các thành phần khác được đảo lên đầu câu thì người ta cảm thấy ngay một sự nhấn mạnh hình ảnh, đặc điểm của sự vật hiện tượng.

         Ví dụ:

          Những cuộc vui ấy, chị còn nhớ rành rành (Ngô Tất Tố)

          Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều (Tố Hữu); (vị ngữ – chủ ngữ)

          Nếu đã xác định là có biện pháp tu từ đảo trật tự thành phần câu thì việc xếp lại trật tự bình thường vẫn phải giữ nguyên được ý nghĩa miêu tả của câu (chỉ mất đi những ý nghĩa bổ sung do tu từ mà có). Nhưng nếu có ai đảo lộn trật tự bình thường của các thành phần câu làm cho câu diễn đạt kém hẳn đi, thì việc xếp lại các thành phần như bình thường sẽ là thao tác có giá trị tu từ.

         Ví dụ: Lom khom dưới núi tiều vài chú

            Vài chú tiều lom khom dưới núi.

          Câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan có thể được phân tích là có đảo vị ngữ lên đầu câu để khắc sâu ấn tượng về hình ảnh lom khom (do đang vác hay gánh củi trên lưng) của mấy người đi kiếm củi. Nhưng câu thơ sau của Nguyễn Khuyến thì không thể phân tích như thế được:

           Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái ( Mấy chùm hoa năm ngoái trước giậu)

          Một tiếng trên không ngỗng nước nào (Một tiếng ngỗng nước nào trên không).

          Câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan thì coi như là có “đảo ngữ” được, còn câu thơ của Nguyễn Khuyến thì không.

          Trật tự từ ngữ trong câu là sự tổ chức từ ngữ sao cho câu không những đúng ngữ pháp mà còn có nhạc tính phù hợp, đảm bảo sự hài hòa về ngữ âm của lời nói. Có nhạc tính phù hợp nghĩa là khi thì phải êm ái, nhịp nhàng, khi thì phải trúc trắc gập ghềnh tùy theo nội dung ý nghĩa của câu. Như vậy gọi là hài thanh.

          Ví dụ bài ” Cây tre Việt Nam” của Thép Mới.   (Tiểu luận: Phương pháp dạy học các biện pháp tu từ phân môn Tiếng Việt cấp THCS)

  1. Trong SGK Ngữ văn 9 đề cập đến việc vận dụng các biện pháp tu từ từ vựng để phân tích những câu văn, câu thơ:

          Việc vận dụng các biện pháp tu từ để phân tích một đoạn thơ hoặc một văn bản nào đó tương đối khó. Nhưng nếu  nắm vững được các biện pháp nghệ thuật trên thì việc vận dụng để phân tích các đoạn thơ bài thơ là một bước khá dễ dàng. Tuy nhiên trong quá trình vận dụng vào phân tích đoạn thơ, bài thơ yêu cầu học sinh phải đọc kĩ đoạn thơ, bài thơ đó, xác định đúng biện pháp tu từ, nhận thấy được giá trị, ý nghĩa, hiệu quả, dụng ý diễn đạt thông qua phép tu từ mà tác giả sử dụng ở trong đoạn thơ, bài thơ đó.

          Dạng bài tìm, phân tích tác dụng của biện pháp tu từ trong thơ văn vốn rất quen thuộc, thường được sử dụng trong kiểm tra, thi cử. Để làm tốt dạng bài này, học sinh cần nhớ và vận dụng các bước như sau:

          Bước 1:

          + Đọc kĩ đề, gạch chân các từ ngữ quan trọng để xác định rõ yêu cầu của đề bài.

          + Tìm nội dung chính của câu, đoạn văn thơ chứa phép tu từ.

          Bước 2:

          + Tìm những phép tu từ được sử dụng trong câu, đoạn thơ văn.

          + Xác định từ ngữ có phép tu từ đó.

( Ví dụ: ẩn dụ được thể hiện ở từ, cụm từ nào? Nhân hoá thể hiện ở từ ngữ nào?)

          Bước 3:

          + Chỉ ra tác dụng của biện pháp tu từ trong việc thể hiện nội dung tư tưởng của đoạn văn, thơ.

          + Trong đó, phân tích kĩ biện pháp nào là hay, đặc sắc nhất, gợi nhiều ấn tượng, cảm xúc cho người đọc.

          Vận dụng vốn sống, vốn cảm thụ của bản thân về Ngữ văn liên quan đến nội dung văn bản và kiến thức về biện pháp tu từ để phân tích, trình bày những suy nghĩ, liên tưởng cảm nhận của riêng mình về giá trị biểu đạt, biểu cảm….của biện pháp tu từ, hiệu quả việc sử dụng các phép tu từ của tác giả để diễn đạt thành công một nội dung cụ thể nào đó trong văn bản.

          Bước 4: Viết đoạn văn, hoặc bài văn ngắn phân tích tác dụng của biện pháp tu từ. Hình thức: Trình bày thành một đoạn văn hay bài văn tùy theo yêu cầu của đề.      Nếu viết đoạn văn: Đoạn văn có thể được triển khai theo một trong các cách mà các em đã học: diễn dịch, qui nạp, tổng- phân – hợp…

          Nếu viết bài văn ngắn: Bài văn ngắn có bố cục ba phần: Mở bài, thân bài, kết bài.

          Ví dụ: Phân tích tác dụng của các phép tu từ được sử dụng trong đoạn thơ sau:

                    “Trên đường hành quân xa

                    Dừng chân bên xóm nhỏ

                    Tiếng gà ai nhảy ổ:

                    “ Cục…cục tác cục ta”

                    Nghe xao động nắng trưa

                    Nghe bàn chân đỡ mỏi

                    Nghe gọi về tuổi thơ”

                            ( Tiếng gà trưa – Xuân Quỳnh)

          Bước 1:

          Đọc, xác định nội dung chính của đoạn thơ: Tâm trạng của người chiến sĩ khi nghe âm thanh tiếng gà trên đường hành quân.

          Bước 2: Xác định phép tu từ:

          – Điệp ngữ: “Nghe”

          – Liệt kê: “Nghe xao động nắng trưa, Nghe bàn chân đỡ mỏi, Nghe gọi về tuổi thơ”.

          – Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: “Nghe xao động nắng trưa, Nghe bàn chân đỡ mỏi, Nghe gọi về tuổi thơ”

          Bước 3: Phân tích tác dụng:

          – Điệp ngữ cách quãng: “ nghe” lặp lại 3 lần ở đầu câu thơ liên tiếp thể hiện nỗi xúc động từng đợt trào dâng trong lòng người chiến sĩ khi nghe âm thanh quen thuộc của quê hương.

          – Liệt kê + ẩn dụ chuyển đổi cảm giác : Nghe…Người chiến sĩ không chỉ nghe âm thanh tiếng gà bằng thính giác mà còn lắng nghe cảm nhận bằng thị giác, bằng cảm giác, cảm xúc của tâm hồn, bằng hồi ức. Tiếng gà đánh thức những kỉ niệm tuổi thơ với bà, gia đình, quê hương. Tiếng gà như sợi dây vô hình nối liền quá khứ với hiện tại.

          – Đoạn thơ ngắn nhưng khắc họa được tâm hồn nhạy cảm cùng tình cảm làng quê thắm thiết sâu nặng, tình yêu quê hương đất nước của người lính. (Tiểu luận: Phương pháp dạy học các biện pháp tu từ phân môn Tiếng Việt cấp THCS)

          Bước 4: Căn cứ vào các ý đã tìm HS viết thành đoạn văn, hay bài văn.

          Thông thường khi vận dụng một số biện pháp tu từ để phân tích đoạn thơ, bài thơ học sinh có thể vận dụng phương pháp trình bày sau để viết:

          – Mở đoạn (hoặc mở bài): giới thiệu văn bản và biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ, bài thơ đó.

          – Phát triển đoạn( hoặc thân bài): phân tích giá trị tu từ:

          + Chỉ ra tên của phép tu từ đó (có thể gồm nhiều phép được sử dụng trong đó)

          + Tìm ra những từ ngữ thể hiện phép tu từ đó; cấu trúc, cấu tạo của phép tu từ (kiểu, cách, công thức, ý nghĩa biểu thị, mối liên hệ cụ thể của nó).

          + Nêu tác dụng, hiệu quả của việc sử dụng phép tu từ trong văn bản đó: nêu những giá trị biểu cảm mà phép tu từ mang lại thể hiện trong văn bản. Vận dụng vốn sống, cảm thụ của bản thân về Ngữ – văn liên quan đến nội dung văn bản và kiến thức về biện pháp tu từ để phân tích, trình bày những suy nghĩ liên tưởng cảm nhận của riêng mình về giá trị biểu cảm, hiệu quả việc sử dụng của phép tu từ của tác giả làm nên sự thành công về mặt nghệ thuật nhằm diễn đạt thành công về một nội dung nào đó cụ thể trong văn bản.

          Cần bám sát những nội dung kiến thức về lí thuyết, về các biện pháp tu từ mà bài học đã cung cấp. Thường là ở phần ghi nhớ. Đồng thời căn cứ vào thực tế cụ thể nội dung biện pháp tu từ trong văn bản đang xem xét.

          – Kết đoạn(hoặc kết bài): khẳng định lại giá trị tu từ trong văn bản. Nếu được thì có thể so sánh, liên tưởng thêm với những trường hợp tương tự khác để thấy được nét riêng độc đáo, sáng tạo của tác giả trong văn bản đó thì càng tốt.

          Tham khảo một số bài phân tích sau:

          Bài 1: Phân tích nét nghệ thuật ẩn dụ độc đáo trong câu thơ sau:

                    Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

                    Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.

                                                   (Nguyễn Khoa Điềm)

          Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có câu thơ ẩn chứa một hình ảnh ẩn dụ thật độc đáo.

          Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

          Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.

         “Mặt trời” trong câu thơ thứ nhất là mặt trời của cõi tự nhiên vĩnh hằng đem ánh sáng nuôi sống muôn loài trên trái đất. Còn “Mặt trời” trong câu thơ thứ hai chính là em bé trên lưng mẹ. Em bé là mặt trời của mẹ cũng giống như mặt trời của cõi tự nhiên vĩnh hằng vô cùng cần thiết đối với muôn loài vậy. Đó là một ẩn dụ độc đáo. Ở đây, Cu Tai, đứa con tuy còn nhỏ đang nằm trên lưng mẹ như là linh hồn của người mẹ Tà Ôi. Đứa con là nguồn sống, là nguồn động viên lớn lao đối với người mẹ, là ánh sáng của đời mẹ, đem lại cho người mẹ tất cả bao hy vọng ước mơ và sức mạnh vượt gian nan, cực nhọc nguy hiểm, làm cho người mẹ có một nghị lực phi thường tìm đến với cách mạng, phát rẫy, trỉa bắp, nuôi con, nuôi bộ đội, phục vụ kháng chiến…. Nguyễn Khoa Điềm đã dùng hình ảnh mặt trời để so sánh ngầm, coi đứa con là mặt trời trong tâm hồn của người mẹ.

Đây cũng là một ẩn dụ độc đáo mới lạ đã thể hiện được tình cảm, sự gắn bó không rời giữa hai mẹ con, là tấm lòng của người mẹ, là tình mẹ đối với con, là niềm hạnh phúc của người mẹ được sống vì con…chính nghệ thuật này góp phần tạo nên giá trị của bài thơ. (Tiểu luận: Phương pháp dạy học các biện pháp tu từ phân môn Tiếng Việt cấp THCS)

          Bài 2: Phân tích biện pháp tu từ từ vựng qua khổ thơ sau:

                                      “Lũ chúng ta ngủ trên giường chiếu hẹp

                                        Giấc mơ con đè nát cuộc đời con

                                        Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp

                                        Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn”

                                                       (Người đi tìm hình cuả nước – Chế Lan Viên)

          Khát khao được sống trong cuộc sống hòa bình đã trở thành tâm niệm của những người sống trong thời chiến. Nhà thơ Chế Lan Viên cũng đã thể hiện cái khát vọng ấy qua tác phẩm “Người đi tìm hình của  nước” với lời thơ tha thiết, sâu lắng và cả những biện pháp nghệ thuật độc đáo. Có thể nói, Chế Lan Viên sử dụng khá thành công  nghệ thuật tu từ từ vựng như nghệ thuật ẩn dụ, tượng trưng, điệp từ “còn”, “một” và tính đa thanh trong giọng điệu (thể hiện ở các từ ngữ “ngủ”, “đè nát”, “đựng”, “yên rủ”) tất cả đã góp phần tạo nên giá trị cho đoạn thơ.

          Mở đầu đoạn thơ Chế Lan Viên viết: “Lũ chúng ta ngủ trên giường chiếu hẹp” “Lũ chúng ta” là lớp thi sĩ tiền chiến (nhà thơ, trí thức …), “Lũ chúng ta” được nhắc đến nhiều trong thơ ca, nhân vật trữ tình xuất hiện nhằm diễn đạt một tâm sự, nỗi niềm chân thành, sâu kín, cũng là lối nói tâm tình cuả tác giả mang hiệu quả nghệ thuật tạo nên giọng điệu đa thanh cho chất thơ. Biện pháp ẩn dụ “giường chiếu hẹp” chỉ cuộc sống chật chội, tầm thường. Một cuộc sống hạn hẹp của nhân dân Việt trước cách mạng tháng Tám hiện lên chân thật qua ngòi bút tài hoa của Chế Lan Viên. Cùng với việc sử dụng hàm nghĩa một cách sâu sắc: “ngủ” chỉ sự đắm chìm trong u mê.

          Tiếp theo nguồn cảm xúc, tác giả tái hiện lại giấc mơ của nhân dân về cuộc sống  hạnh phúc, tốt đẹp hơn.

                                           “Giấc mơ con đè nát cuộc đời con

                                         Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp”

          Lại một lần nữa biện pháp nghệ thuật ẩn dụ được sử dụng khá độc đáo, chính nghệ thuật ẩn dụ này đã làm cho khổ thơ trở nên đặc sắc hơn. “Giấc mơ con” là cuộc sống nhỏ nhoi, “cuộc đời con” là cuộc đời nhạt nhẽo, tầm thường đến nỗi đáng buồn. “Tà áo đẹp” chính là ước mơ về cuộc sống vật chất tốt đẹp hơn. Từ đa thanh “đè nát” – sự quằn quại, đau thương. “đựng” – châm biếm lối sống tầm thường, giả dối, hạn hẹp trong phạm vi nhỏ. Họ sống trong cuộc sống thiếu thốn, nhạt nhẽo, vô vị, chỉ có ước mơ nhỏ nhoi về cuộc sống đầy đủ vật chất. Chính caí “giấc mơ con” kia đã đè nát “cuộc đời con” làm họ phải quằn quại, vật vã trong đau thương. Hạnh phúc quá mong manh được đựng trong “một tà áo đẹp” thế nhưng chính chiến tranh loạn lạc đã cướp đi hạnh phúc ấy. Điều mà họ muốn chỉ là một cuộc sống tương đối đầy đủ về vật chất nhưng nó lại đựng trong một hạnh phúc ảo tưởng, đây như lời châm biếm, chế giễu lối sống tầm thường. Và cuối cùng họ đồng ý chấp nhận một cuộc sống an phận.

                                      “Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn”

          Lại một lần nữa biện pháp nghệ thuật ẩn dụ được sử dụng và khai thác triệt để. “Một mái nhà yên” chính là lối sống yên phận, “rủ” – an phận thủ thường. Thật hiếm khi “đội quân” ẩn dụ được huy động “đông đảo” đến vậy. Bốn câu thơ là bốn phép ẩn dụ, ngoài ra tính đa thanh của từ ngữ càng làm cho khổ thơ tăng thêm sức gợi hình.

   Bên cạnh việc vận dụng khá thành công biện pháp ẩn dụ, đoạn thơ còn hay bởi sự kết hợp hài hòa của biện pháp điệp từ “con”, “một”, tất cả đều tạo cảm giác nhỏ bé, ít ỏi. Điều này giúp ý thơ được nhấn mạnh hơn, gợi ra niềm xót xa về một quá khứ nhạt nhẽo, vô vị. (Tiểu luận: Phương pháp dạy học các biện pháp tu từ phân môn Tiếng Việt cấp THCS)

          Đây là đoạn thơ hay, đặc sắc với sự kết hợp các biện pháp nghệ thuật mà nổi trội là nghệ thuật ẩn dụ, ngôn từ chọn lọc, tinh tế vừa biểu cảm vừa giàu hình ảnh trí tuệ. Chính biện pháp tu từ được vận dụng sáng tạo đã tạo nên tính đa thanh cho đoạn thơ. Ngoài ra còn có dụng ý so sánh: đặt cái “tôi” nhỏ bé, tầm thường tương phản với những chiến sĩ đi tìm đường cứu nước qua đó khắc họa thành công cốt cách vĩ đại, phi thường của Bác – con người giàu lòng yêu nước, có chí lớn và lí tưởng cao đẹp…

                                                                                          ( Bài làm tham khảo)

          Qua việc áp dụng phương pháp này vào hướng dẫn học sinh viết đoạn văn phân tích tác dụng của biện pháp tu từ. Ngoài việc cảm thụ văn học các em còn có kĩ năng khai thác hiệu quả thẩm mỹ của các biện pháp tu từ được sử dụng trong trong tác phẩm; làm cho bài văn nghị luận sâu sắc hơn với việc bày tỏ quan điểm, lập trường, cách nhìn nhận, đánh gía…

          Việc áp dụng phương pháp trên vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn 9 đã giúp học sinh biết cách làm và rèn được kĩ năng viết đoạn văn phân tích tác dụng của biện pháp tu từ. Nâng cao kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh, đặc biệt là đối tượng học sinh trung bình – yếu.

Trên đây là tiểu luận môn Sáng kiến kinh nghiệm đề tài: Phương pháp dạy học các biện pháp tu từ phân môn Tiếng Việt cấp THCS, dành cho các bạn đang làm tiểu luận môn học Sáng kiến kinh nghiệm: còn nhiều bài mẫu tiểu luận môn học các bạn tìm kiếm trên chuyên mục nhé. 

Lưu ý: Có thể trên website không có tài liệu đúng như các bạn mong muốn để hoàn thiện bài làm hoàn toàn mới và chất lượng tốt các bạn có thể cần tới sự hỗ trợ của dịch vụ viết tiểu luận để kham khảo bảng giá và quy trình làm việc các bạn có thể trao đổi với mình qua SDT/Zalo: https://zalo.me/0932091562

DOWNLOAD FILE