Tại sao trong cuộc song người ta làm lưỡi dao bằng thép mà không làm bằng nhôm

Tại sao người ta lại làm lưỡi dao, lưỡi kéo bằng thép mà không làm bằng nhôm?

Tại sao người ta lại làm lưỡi dao, lưỡi kéo bằng thép mà không làm bằng nhôm?

Khoa học 5 Bài 13: Sắt, nhôm, đồng

Khoa học 5 Bài 13: Sắt, nhôm, đồng

A. Hoạt động cơ bản

1. Liên hệ thực tế

Hãy kể tên một số vật làm bằng sắt, đồng, hay nhôm mà em biết

Trả lời:

Một số đồ vật làm bằng sắt, đồng, nhôm là:

+ Sắt: cày, cuốc, xẻng, kéo, dao, đường ray, cầu, nhà…

+ Đồng: trống, nồi, bộ lư, thau, mâm….

+ Nhôm: ấm, cửa, giá sách, chậu, xoong, chậu nhôm, thìa, đũa, mâm, …

2. Tìm hiểu đặc điểm của sắt, đồng, nhôm

a. Lấy các thanh/ miếng sắt, đồng, nhôm ở góc học tập

– Quan sát và nêu nhận xét về đặc điểm của các thanh/ miếng sắt, đồng, nhôm.

– Trao đổi với các bạn trong nhóm về kết quả quan sát.

b. Quan sát và so sánh một chiếc đinh mới hoặc một đoạn dây thép với một chiếc đinh gỉ hoặc dây thép gỉ, bạn có nhận xét gì về màu, độ sáng và tính cứng của chúng.

Trả lời:

a. Nhận xét về đặc điểm của các thanh/ miếng sắt, đồng, nhôm:

+ Sắt là kim loại có tính dẻo, dễ uôn, dễ kéo thành sợi, dễ rèn dập, màu trắng sáng có ánh kim.

+ Đồng là kim loại có ánh kim, dễ dát mỏng, kéo thành sợi, có màu đỏ nâu.

+ Nhôm màu trắng đục, có thể kéo thành sợi, dát mỏng, không bị gỉ nhung bị một số a-xít ăn mòn.

b. So sánh một chiếc đinh mới hoặc một đoạn dây thép với một chiếc đinh gỉ hoặc dây thép gỉ, em nhận thấy:

+ Chiếc đinh mới có màu trắng sáng, cứng nhưng dẻo.

+ Chiếc đinh gỉ có màu nâu đen, cứng nhưng giòn, dễ gãy.

3. Tìm hiểu việc sử dụng sắt

Người ta sử dụng sắt để làm gì? Các đồ dùng bằng sắt có đặc điểm gì?

Trả lời:

+ Người ta sử dụng sắt đế tạo ra gang, thép. Những đồ dùng có sắt là dao, kéo, dụng cụ lao động sản xuất, đường sắt, nhà cao tầng, cầu, đường ray tàu hỏa, …

+ Các đồ dùng bằng sắt cứng, bền.

4. Kể tên một số đồ dùng làm bằng đồng và một số đồ dùng làm bằng nhôm

Trả lời:

Tên một số đồ dùng làm bằng đồng và nhôm là:

XEM THÊM 9 phim phá án xứ Hàn từ hài té ghế đến sợ xanh mặt: Law School chưa gắt bằng bom tấn của Seo Ye Ji

+ Đồ dùng bằng đồng: dây điện, lư đồng, nồi, thau, tượng thờ, trống đồng, kèn…

+ Đồ dùng bằng nhôm: khung cửa, nồi, chảo, ấm…

5. Nêu cách bảo quản một số đồ dùng bằng sắt, đồng, nhôm thường dùng

Trả lời:

Cách bảo quản một số đồ dùng bằng sắt, đồng, nhôm là:

+ Các đồ dùng bằng sắt, đồng nhôm sau khi dùng xong phải rửa sạch và cất nơi khô ráo.

+ Thỉnh thoảng cần dùng thuốc lau chùi, giúp chúng sáng bóng trở lại.

+ Dùng thuốc đánh đồng để lau chùi làm cho chúng sáng bóng trở lại.

+ Khi bưng bê các đồ dùng bằng nhôm phải nhẹ nhàng vì chúng mềm và rất dễ bị cong, vênh, méo

a] Đọc nội dung sau:

– Sắt là kim loại có tính dẻ, dễ uốn, dễ kéo thành sợi, dễ rèn, dập. Sắt màu trắng sáng có ánh kim. Sắt được sản xuất ra từ quặng sắt.

Thép là hợp kim của sắt với cac-bon và một vài thành phần khác. Thép có tính chất tốt hơn sắt: cứng hơn, bền hơn. Có nhiều loại thép khác nhau, trong đó có loại thép không gỉ. Thép được sử dụng là dao, kéo, cày, cuốc, hàng rào, … máy móc, tàu, xe, cầu, đường sắt.

Gang cũng là hợp kim của sắt và các-bon nhưng gang có nhiều các-bon hơn thép, gang rất cứng, giòn không thể uốn hay kéo thành sợi. Gang có thể dùng để làm nồi, chảo.

– Đồng và nhôm đều là kim loại, chúng đều có ánh kim.

Đồng có màu đỏ nâu, dẫn điện và dẫn nhiệt tốt, bền, dễ dát mỏng và kéo thành sợi. Đồng được sử dụng để làm một số đồ điện, dây điện, … Các hợp kim của đồng với thiếc hoặc kẽm được sử dụng làm nồi, mâm, kèn, cồng, chiêng, chế tạo vũ khí, đúc tượng, …

– Nhôm màu trắng bậc, có thể kéo thành sợi, dát mỏng, dẫn điện, dẫn nhiệt, không bị gỉ nhưng bị một số a-xit ăn mòn. Nhôm và hợp kim của nhôm được dùng để làm nồi, vỏ hộp, khung cửa và một số bộ phận của tàu hoả, ô tô, máy bay, tàu thuỷ, …

b. Trả lời câu hỏi: Hãy nêu một số đặc điểm giống và khác nhau giữa sắt, đồng, nhôm

Trả lời:

Một số đặc điểm giống và khác nhau giữa sắt, đồng, nhôm là:

– Giống nhau: đều là kim loại, có ánh kim, dễ kéo thành sợi và dẫn điện và dẫn nhiệt tốt.

– Khác nhau:

XEM THÊM [VITAMIN C] - Lựa chọn nào tốt nhất cho bạn?

+ Sắt: màu trắng sáng, bị gỉ

+ Đồng: màu đỏ nâu, bị gỉ

+ Nhôm: màu trắng bạc, không bị gỉ nhưng bị một số a-xit ăn mòn.

B. Hoạt động thực thành

1. Trả lời câu hỏi

a. Tại sao người ta lại làm lưỡi dao, lưỡi kéo bằng thép mà không làm bằng nhôm?

b. Quan sát cánh cửa làm bằng nhôm. So với cánh cửa có cùng hình dạng, kích thước được làm bằng sắt thì cánh cửa nhôm có những ưu điểm và nhược điểm gì?

Trả lời:

a. Người ta lại làm lưỡi dao, lưỡi kéo bằng thép mà không làm bằng nhôm vì: thép cứng hơn sắt, bền hơn sắt và có những loại thép không bị gỉ. Trong khi đó, nhôm dẻo hơn, mềm hơn và bị một số a-xít ăn mòn.

b. So với cánh cửa có cùng hình dạng, kích thước được làm bằng sắt thì cánh cửa nhôm có những ưu điểm và nhược điểm:

+ Ưu điểm: thanh mảnh, nhẹ hơn, đẹp hơn, không bị gỉ

+ Nhược điểm: yếu hơn, dễ bị uốn cong, bẻ gãy

2. Khoanh vào chữ cái đầu câu đúng

A. Do sắt cứng nên khi sử dụng các vật làm từ sắt cần cẩn thận tránh bị gây chấn thương.

B. Tránh để các vật sắc nhọn như dao, kéo gần mép bàn.

C. Tránh đế các mẩu sắt rơi ở nền nhà, sân.

D. Người ta có thể bôi dầu vào một số vật làm từ sắt để tránh gỉ.

E. Chân song sắt, đường sắt được làm từ gang.

Trả lời:

Những câu đúng là:

A. Do sắt cứng nên khi sử dụng các vật làm từ sắt cần cẩn thận tránh bị gây chấn thương.

B. Tránh để các vật sắc nhọn như dao, kéo gần mép bàn.

C. Tránh đế các mẩu sắt rơi ở nền nhà, sân.

D. Người ta có thể bôi dầu vào một số vật làm từ sắt để tránh gỉ.

3. Chơi trò chơi ” Ai nhanh, ai đúng” [Thực hành trên lớp học]

4. Hãy nói về cách làm ra một đồ dùng bằng sắt, đồng, nhôm

Trả lời:

Ví dụ: Các bước làm dao Phúc Sen

– Bước 1: Cắt thép và định hình dao

Từ những thanh thép sẽ được cắt theo chiều dài mà bạn muốn làm dao. Sau đó thép sẽ được dùng búa tạ để đập tạo hình dáng cho sản phẩm dao.

– Bước 2: Tôi luyện thép

Tôi luyện thép là phần quan trọng nhất trong quy trình làm dao. Đây là quá trình nung đỏ thép sau đó giữ nhiệt và làm nguội nhanh.

XEM THÊM Tượng 7 Vị Phật Dược Sư [Thất Phật] Đẹp

Bước nung đỏ thép để tăng độ bền cho dao

Công đoạn này sẽ giúp cho thép được nâng cao độ cứng bền cho dao. Bí quyết giúp tăng tính mài mòn của dao và tăng độ bền nằm ở nước nhúng dùng để làm nguội nhanh. Chỉ có những người thợ lâu năm và làng nghề truyền thống mới có thể pha chế được nước nhúng và cách nhúng chuẩn mà thôi.

Nước tôi dao được pha từ tro gỗ lim ngâm với nước vôi để qua đêm, sau đó sẽ chắt lấy nước nổi trên bề mặt để làm nước tôi dao. Dao tốt hay cùn phụ thuộc rất nhiều vào loại nước tôi dao và cách đưa lưỡi dao lướt qua nước tôi như thế nào để đạt độ chính xác cao.

– Bước 3: Ram thép

Ram thép là quá trình nung nóng thép đã qua bước tôi dưới nhiệt độ tới hạn, được giữ nhiệt và làm nguội. Bước này chính là sự thể hiện bản lĩnh, kinh nghiệm của người thợ cao tay. Những người thợ cả được tôi luyện đôi mắt đến độ thuần thục. Dùng đôi mắt để cảm nhận và điều khiển đôi tay nện búa cho tới khi đạt yêu cầu.

– Bước 4: Mài dao thành thành phẩm đẹp

Mài dao là bước cuối cùng để chau chuốt sản phẩm cho tinh xảo, và sắc bén. Dao sẽ được mài bằng đá mài khoảng 20 phút, được người thợ cảm nhận bằng tay cho tới khi ưng ý là được.

C. Hoạt động ứng dụng

Thực hiện một số biện pháp để sử dụng an toàn và bảo quản đồ dùng làm bằng sắt, đồng hoặc nhôm có ở nhà em.

Xem thêm các bài Giải bài tập Khoa học 5 VNEN hay khác:

Giới thiệu kênh Youtube VietJack

Ngân hàng trắc nghiệm lớp 3-4-5 tại khoahoc.vietjack.com

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.


Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Giải bài tập Khoa học 5 VNEN của chúng tôi được biên soạn bám sát nội dung sgk Hướng dẫn học Khoa học 5 chương trình mới.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Blog

Share this:

  • Twitter
  • Facebook

Đề thi kì 1 môn khoa học lớp 5 TH Ngô Quyền 2017 - 2018

Đề thi cuối học kì 1 lớp 5 môn khoa học năm học 2017 - 2018 trường tiểu học Ngô Quyền, Krông Năng có đáp án chi tiết.

I. Phần trắc nghiệm [7 điểm]

Em hãy khoanh vào chữ cái đặt trước đáp án đúng ở các câu 1,2,3,4,5.

Câu 1: Có thể chia cuộc đời con người làm mấy giai đoạn lớn?

A. 1 giai đoạn lớn

B. 2 giai đoạn lớn

C. 3 giai đoạn lớn

D. 4 giai đoạn lớn

Câu 2: Khoanh tròn vào chữ cái trước phát biểu đúng M1

A. Sắt cứng, không có tính dẻo, khó uốn.

B. Thép là hợp kim của đồng.

C. Đồng có màu nâu đỏ, dẫn điện và dẫn nhiệt tốt

D. Nhôm có màu nâu đỏ, không dẫn điện.

Câu 3: Em bé nằm trong bụng mẹ được gọi là gì?? M1

A. Bào thai B. trứng C. Hợp tử D. tinh trùng

Câu 4: Vì sao người ta làm lưỡi dao bằng thép mà không làm bằng nhôm? M2

A. Vì thép rẻ hơn nhôm

B. Vì tài thép cứng, và bền hơn nhôm

C. Vì thép đẹp hơn nhôm

D. Vì thép dễ dàng tìm mua hơn nhôm

Câu 5 : Nguyên nhân nào gây ra bệnh sốt rét? M2

A. Lây qua đường hô hấp từ người bệnh sang người lành

B. Do ăn uống mất vệ sinh

C. Do tiêm chích ma túy

D. Do muỗi a-nô-phen truyền kí sinh trùng từ người bệnh sang người lành

Câu 6: Em hãy ghi chữ Đ vào ô trước phát biểu đúng, chữ S vào ô trước phát biểu sai. M2

Rượu, bia, thuốc lá hoàn toàn vô hại

Phải dùng thuốc theo sự chỉ dẫn của bác sĩ

Muỗi là động vật trung gian gây bệnh viên gan A

HIV lây qua 3 con đường: đường máu, đường tình dục và từ mẹ sang con.

Câu 7: Điền các từ: trong suốt, cát trắng, a xít, cháy vào chỗ chấm cho phù hợp M2

Thủy tinh được làm từ………………………..và một số chất khác. Thủy tinh……………....

………., không gỉ, cứng, dễ vỡ. Thủy tinh không…………….., không hút ẩm và không bị……………………. ăn mòn.

II. Phần tự luận [3 điểm].

Câu 8: Em hãy vẽ sơ đồ thể hiện sự hình thành và phát triển của bào thai trong bụng mẹ? M3

Câu 9: Em hãy một số đồ dung làm bằng thủy tinh. M1

Câu 10: Có 2 hòn đá. Một hòn đá cuội và một hòn đá vôi. Theo em, làm thế nào để phân biệt được đâu là hòn đá vôi, đâu là hòn đá cuội? M4

I.PHẦN TRẮC NGHIỆM

CÂU

ĐÁP ÁN

ĐIỂM

1

D

1

2

C

1

3

A

1

4

B

1

5

D

1

6

S,Đ,S,Đ

1

7

Cát trắng, trong suốt, cháy, a xít

1

II.PHẦN TRẮC NGHIỆM

Câu 8: Trứng + ting trùng Hợp tử Bào thai

Câu 9: Ly, chén, bong điện, chai, lọ, …

Câu 10: : Cọ xát hai hòn đá vào nhau, hòn đá nào bị ăn mòn chính là hòn đá vôi.

Hoặc nhỏ một giọt a xít lên 2 hòn đá. Hòn đá nào có hiện tượng sủi bọt đó là hòn đá vôi

Theo TTHN

Mục lục

Từ nguyênSửa đổi

Từ sắt trong tiếng Việt là một từ Hán Việt cổ, bắt nguồn từ cách phát âm trong tiếng Hán thượng cổ của một từ tiếng Hán được viết bằng chữ Hán là "鐵".[2] Chữ Hán "鐵" có âm Hán Việt hiện hành là thiết. Phan Ngộ Vân [潘悟云] phục nguyên cách phát âm trong tiếng Hán thượng cổ của từ "鐵" là *kh-lit.[2]

Thuộc tínhSửa đổi

M,6%] tạo ra Trái Đất; sự tập trung của sắt trong các một nguyên tử sắt điển hình có khối lượng gấp 56 lần khối lượng một nguyên tử hiđrô điển hình. Sắt là kim loại phổ biến nhất, và người ta cho rằng nó là nguyên tố phổ biến thứ 10 trong vũ trụ. Sắt cũng là nguyên tố phổ biến nhất [theo khối lượng, 34 lớp khác nhau của Trái Đất dao động từ rất cao ở lõi bên trong tới khoảng 5% ở lớp vỏ bên ngoài; có thể phần lõi của Trái Đất chứa các tinh thể sắt mặc dù nhiều khả năng là hỗn hợp của sắt và niken; một khối lượng lớn của sắt trong Trái Đất được coi là tạo ra từ trường của nó. Ký hiệu của sắt Fe là từ viết tắt của ferrum, từ Latinh để chỉ sắt.

Sắt là kim loại được tách ra từ các mỏ quặng sắt, và rất khó tìm thấy nó ở dạng tự do. Để thu được sắt tự do, các tạp chất phải được loại bỏ bằng phương pháp khử hóa học. Sắt được sử dụng trong sản xuất gang và thép, đây là các hợp kim, là sự hòa tan của các kim loại khác [và một số á kim hay phi kim, đặc biệt là cacbon].

Hạt nhân của sắt có năng lượng liên kết cao nhất, vì thế nó là nguyên tố nặng nhất được sản xuất trong các phản ứng nhiệt hạch và là nhẹ nhất trong phản ứng phân rã hạt nhân. Các ngôi sao có khối lượng lớn khi gần cháy hết nhiên liệu hiđrô, sẽ bắt đầu các chuỗi phản ứng hạt nhân tạo ra các chất có khối lượng nguyên tử tăng dần, bao gồm cả sắt, trước khi bùng nổ thành các siêu tân tinh.

Các mô hình vũ trụ trong vũ trụ mở dự đoán rằng có một giai đoạn ở đó do kết quả của các phản ứng nhiệt hạch và phân hạch chậm lại, mọi thứ sẽ trở thành sắt.

Đặc điểm cơ họcSửa đổi

Các đặc điểm cơ học của sắt và các hợp kim của nó có thể được xác định bằng nhiều thí nghiệm khác nhau, như thử nghiệm Brinell, thử nghiệm Rockwell và thử nghiệm độ cứng Vickers. Các dữ liệu đối với sắt rất phù hợp trong việc sử dụng nó để so hiệu chỉnh các đo đạc hoặc so sánh các thử nghiệm.[3][4] Tuy nhiên, các đặc điểm cơ học của sắt cũng bị ảnh hưởng đáng kể bởi độ tinh khiết của mẫu: các tinh thể sắt riêng lẻ nguyên chất dùng cho mục đích nghiên cứu thực sự là mềm hơn nhôm,[5] và sắt sản xuất trong công nghiệp tinh khiết nhất [99,99%] có độ cứng 20–30 Brinell.[6] Việc tăng hàm lượng cacbon trong sắt sẽ làm tăng đáng kể độ cứng và độ bền kéo của sắt. Độ cứng lớn nhất của 65 Rc đạt được khi hàm lượng cacbon là 0,6%, mặc dù loại này làm cho kim loại có độ bền kéo thấp.[7]

Các giá trị độ bền kéo [TS] và độ cứng Brinell [BH] của nhiều loại sắt khác nhau.[3][5] Vật liệu TS
[MPa] BH
[Brinell]
Sắt whisker 11000
Thép tôi 2930 850–1200
Thép Martensit 2070 600
Thép Bainit 1380 400
Thép Pearlit 1200 350
Sắt gia công nguội 690 200
Sắt hạt nhỏ 340 100
Sắt chứa cacbon 140 40
Sắt nguyên chất, đơn tinh thể 10 3

Sơ đồ pha và thù hìnhSửa đổi

Bài chi tiết: Thù hình của sắt

Sắt là một đại diện ví dụ cho tính chất thù hình của kim loại. Có ít nhất 4 dạng thù hình của sắt gồm α, γ, δ, và ε; ở áp suất rất cao, một vài bằng chứng thực nghiệm còn tranh cãi cho thấy sự tồn tại của pha ổn định β ở áp suất và nhiệt độ rất cao.[8]

Sơ đồ pha áp suất thấp của sắt tinh khiết

Khi sắt nóng chảy nguội đi, nó kết tinh ở 1538 ℃ ở dạng thù hình δ, dạng này có cấu trúc tinh thể lập phương tâm khối [bcc]. Khi nó nguội nhiều hơn cấu trúc tinh thể của nó chuyển sang dạng lập phương tâm mặt [fcc] ở 1394 ℃, khi đó nó có ở dạng sắt γ, hay austenit. Ở 912 ℃ cấu trúc tinh thể lại chuyển sang dạng bcc là sắt α, hay ferrit, và ở 770 ℃ [điểm Curie, Tc] sắt trở thành sắt từ. Khi sắt đi qua điểm Curie sẽ không có sự thay đổi cấu trúc tinh thể, nhưng có sự thay đổi về "cấu trúc domain", ở đây mỗi domain chứa các nguyên tử sắt với các spin electron cụ thể. Ở sắt chưa bị từ hòa, tất cả các spin electron của các nguyên tử bên trong một domain có cùng hướng; các domain kề bên chỉ các hướng khác nhau và do đó triệt tiêu nhau. Đối với sắt bị từ hóa, các spin electron của tất cả các domain đều được xếp cùng hướng, vì vậy các hiệu ứng từ của các domain lân cận tăng cường lẫn nhau. Mặc dù mỗi domain chứa hàng tỉ nguyên tử, chúng rất nhỏ với bề rộng chỉ khoảng 10 micromet.[9] Ở áp suất trên 10 GPa và nhiệt độ hàng trăm K hoặc thấp hơn, sắt α chuyển thành cấu trúc sáu phương kết chặt [hcp], hay còn gọi là sắt ε; pha γ có nhiệt độ cao hơn cũng biến đổi thành sắt ε, nhưng ở áp suất cao hơn. Pha β, nếu tồn tại, có thể ở áp suất ít nhất 50 GPa và nhiệt độ ít nhất 1500 K; nó được cho là có cấu trúc trực thoi hoặc hcp kép.[8]

Lịch sửSửa đổi

Các vật dụng bằng sắt có niên đại lớn hiếm hơn các vật dụng làm bằng vàng hay bạc do tính dễ ăn mòn của sắt.[10] Những hạt là từ sắt thiên thạch năm 3500 TCN hoặc sớm hơn được G. A. Wainwright tìm thấy ở Gerzah, Ai Cập.[11] Các hạt chứa 7,5% niken, là một dấu hiệu về nguồn gốc thiên thạch vì sắt được phát hiện trong vỏ Trái Đất có rất ít hoặc không có thành phần niken. Sắt thiên thạch có chất lượng cao do nguồn gốc của nó từ vũ trụ và thường được dùng làm vũ khí và các dụng cụ hoặc các mẫu vật được đặt trong các nhà thờ.[11] Các vật dùng có thể làm từ sắt bởi những người Ai Cập có tuổi khoảng 3000 đến 2500 TCN.[10] Sắt có lợi thế hơn đồng trong việc làm dụng cụ chiến tranh. Nó cứng hơn và bền hơn đồng, mặc dù dễ bị rỉ sét. Trevor Bryce cho rằng trước khi công nghệ rèn sắt tiến bộ được phát triển ở Ấn Độ, các vũ khí làm từ sắt thiên thạch đã được sử dụng bởi quân đội Mesopotamia trước đó đã chiếm ưu thế trong chiến đấu do dùng hàm lượng cacbon cao.[12]

Những dấu hiệu đầu tiên về việc sử dụng sắt là ở những người Sumeria và người Ai Cập vào khoảng 4000 năm TCN, các đồ vật nhỏ như mũi giáo và đồ trang trí, đã được làm từ sắt lấy từ các thiên thạch. Vì các thiên thạch rơi từ trên trời xuống nên một số nhà ngôn ngữ học phỏng đoán rằng từ tiếng Anh iron, là từ có cùng nguồn gốc với nhiều ngôn ngữ ở phía bắc và tây châu Âu, có xuất xứ từ tiếng Etruria aisar có nghĩa là "trời".

Vào khoảng những năm 3000 đến 2000 Trước Công Nguyên [TCN], đã xuất hiện hàng loạt các đồ vật làm từ sắt nóng chảy [phân biệt rõ với sắt từ thiên thạch do thiếu niken trong sản phẩm] ở Lưỡng Hà, Anatolia và Ai Cập. Tuy nhiên, việc sử dụng chúng có lẽ là thuộc về hình thức trong tế lễ, và sắt đã từng là kim loại rất đắt, hơn cả vàng. Trong Illiad, các vũ khí chủ yếu làm từ đồng thau, nhưng các thỏi sắt đã được sử dụng trong buôn bán. Một số nguồn [xem phần tham khảo Cái gì tạo ra thời đại đồ sắt? dưới đây] cho rằng sắt được tạo ra khi đó như sản phẩm đi kèm của việc tinh chế đồng, như là những bọt sắt, và không được tái sản xuất bởi ngành luyện kim khi đó. Vào khoảng năm 1600 đến 1200 TCN, sắt đã được sử dụng nhiều hơn ở Trung Cận Đông, nhưng vẫn chưa thay thế được sự thống trị của đồng thau.

Trong thời kỳ từ thế kỷ XII đến thế kỷ X TCN, đã có sự chuyển đổi nhanh chóng từ công cụ, vũ khí đồng thau sang sắt ở Trung Cận Đông. Yếu tố quyết định của chuyển đổi này không phải là sự xuất hiện của các công nghệ luyện sắt cao cấp hơn mà là sự cạn kiệt của các nguồn cung cấp thiếc. Thời kỳ chuyển đổi này diễn ra không đồng thời trên thế giới, là dấu hiệu cho thời kỳ văn minh mới được gọi là thời đại đồ sắt.

Cùng với việc chuyển đổi từ đồng thau sang sắt là việc phát hiện ra quy trình carbide hóa, là quy trình bổ sung thêm cacbon vào sắt. Sắt được thu lại như bọt sắt, là hỗn hợp của sắt với xỉ với một ít cacbon và/hoặc carbide, sau đó nó được rèn và tán phẳng để giải phóng sắt khỏi xỉ cũng như oxy hóa bớt cacbon, để tạo ra sắt non. Sắt non chứa rất ít cacbon và không dễ làm cứng bằng cách làm nguội nhanh. Người Trung Đông đã phát hiện ra là một số sản phẩm cứng hơn có thể được tạo ra bằng cách đốt nóng lâu sắt non với than củi trong lò, sau đó làm nguội nhanh bằng cách nhúng vào nước hay dầu. Sản phẩm tạo thành có bề mặt của thép, cứng hơn và ít gãy hơn đồng thau, là thứ đang bị thay thế dần.

Ở Trung Quốc, những đồ vật bằng sắt đầu tiên được sử dụng cũng là sắt lấy từ thiên thạch, các chứng cứ khảo cổ học về các đồ vật làm từ sắt non xuất hiện ở miền tây bắc, gần Tân Cương trong thế kỷ VIII TCN. Các đồ vật làm từ sắt non có cùng quy trình như sắt được làm ở Trung Đông và châu Âu, và vì thế người ta cho rằng chúg được nhập khẩu bởi những người không phải là người Trung Quốc.

Trong những năm muộn hơn của nhà Chu [khoảng năm 550 TCN], khả năng sản xuất sắt mới đã bắt đầu vì phát triển cao của công nghệ lò nung. Sản xuất theo phương pháp lò nung không khí nóng có thể tạo ra nhiệt độ trên 1300 K, người Trung Quốc bắt đầu sản xuất gang thô và gang đúc.

Nếu quặng sắt được nung với cacbon tới 1420–1470 K, một chất lỏng nóng chảy được tạo ra, là hợp kim của khoảng 96,5% sắt và 3,5% cacbon. Sản phẩm này cứng, có thể đúc thành các đồ phức tạp, nhưng dễ gãy, trừ khi nó được phi-carbide hóa để loại bớt cacbon. Phần chủ yếu của sản xuất sắt từ thời nhà Chu trở đi là gang đúc. Sắt, tuy vậy vẫn là sản phẩm thông thường, được sử dụng bởi những người nông dân trong hàng trăm năm, và không có ảnh hưởng đáng kể đến diện mạo của Trung Quốc cho đến tận thời kỳ nhà Tần [khoảng năm 221 TCN].

Việc sản xuất gang đúc ở châu Âu bị chậm trễ do các lò nung chỉ có thể tạo ra nhiệt độ khoảng 1000 K. Trong thời Trung cổ, ở Tây Âu sắt bắt đầu được làm từ bọt sắt để trở thành sắt non. Gang đúc sớm nhất ở châu Âu tìm thấy ở Thụy Điển, trong hai khu vực là Lapphyttan và Vinarhyttan, khoảng từ năm 1150 đến 1350. Có giả thuyết cho rằng việc sản xuất gang đúc là do người Mông Cổ thông qua nước Nga truyền đến các khu vực này, nhưng không có chứng cứ vững chắc cho giả thuyết này. Trong bất kỳ trường hợp nào, vào cuối thế kỷ 14 thì thị trường cho gang đúc bắt đầu được hình thành do nhu cầu cao về gang đúc cho các súng thần công.

Việc nung chảy sắt thời kỳ đầu tiên bằng than củi như là nguồn nhiệt và chất khử. Trong thế kỷ XVIII, ở Anh việc cung cấp gỗ bị giảm xuống và than cốc, một nhiên liệu hóa thạch, đã được sử dụng để thay thế. Cải tiến của Abraham Darby đã cung cấp năng lượng cho cuộc cách mạng công nghiệp.

Ứng dụngSửa đổi

Cổng nhà máy được làm từ sắt

Sắt là kim loại được sử dụng nhiều nhất, chiếm khoảng 95% tổng khối lượng kim loại sản xuất trên toàn thế giới. Sự kết hợp của giá thành thấp và các đặc tính tốt về chịu lực, độ dẻo, độ cứng làm cho nó trở thành không thể thay thế được, đặc biệt trong các ứng dụng như sản xuất ô tô, thân tàu thủy lớn, các bộ khung cho các công trình xây dựng. Thép là hợp kim nổi tiếng nhất của sắt, ngoài ra còn có một số hình thức tồn tại khác của sắt như:

  • Gang thô [gang lợn] chứa 4%–5% cacbon và chứa một loạt các chất khác như lưu huỳnh, silic, phosphor. Đặc trưng duy nhất của nó: nó là bước trung gian từ quặng sắt sang thép cũng như các loại gang đúc [gang trắng và gang xám].
  • Gang đúc chứa 2%–3,5% cacbon và một lượng nhỏ mangan. Các chất có trong gang thô có ảnh hưởng xấu đến các thuộc tính của vật liệu, như lưu huỳnh và phosphor chẳng hạn sẽ bị khử đến mức chấp nhận được. Nó có điểm nóng chảy trong khoảng 1420–1470 K, thấp hơn so với cả hai thành phần chính của nó, làm cho nó là sản phẩm đầu tiên bị nóng chảy khi cacbon và sắt được nung nóng cùng nhau. Nó rất rắn, cứng và dễ vỡ. Làm việc với đồ vật bằng gang, thậm chí khi nóng trắng, nó có xu hướng phá vỡ hình dạng của vật.
  • Thép cacbon chứa từ 0,5% đến 1,5% cacbon, với một lượng nhỏ mangan, lưu huỳnh, phosphor và silic.
  • Sắt non chứa ít hơn 0,5% cacbon. Nó là sản phẩm dai, dễ uốn, không dễ nóng chảy như gang thô. Nó có rất ít cacbon. Nếu mài nó thành lưỡi sắc, nó đánh mất tính chất này rất nhanh.
  • Các loại thép hợp kim chứa các lượng khác nhau của cacbon cũng như các kim loại khác, như crom, vanadi, molybden, niken, wolfram, v.v.
  • Sắt[III] oxide được sử dụng để sản xuất các bộ lưu từ tính trong máy tính. Chúng thường được trộn lẫn với các hợp chất khác, và bảo tồn thuộc tính từ trong hỗn hợp này.
  • Trong sản xuất xi măng người ta trộn thêm sắt[II] sunfat vào để hạn chế tác hại của crom hóa trị 6 – nguyên nhân chính gây nên bệnh dị ứng xi măng với những người thường xuyên tiếp xúc với nó

Sản xuấtSửa đổi

Sắt là một trong những nguyên tố phổ biến nhất trên Trái Đất, chiếm khoảng 5% khối lượng vỏ Trái Đất. Phần lớn sắt được tìm thấy trong các dạng oxide sắt khác nhau, chẳng hạn như khoáng chất hematit, magnetit, taconit. Khoảng 5% các thiên thạch chứa hỗn hợp sắt-niken. Mặc dù hiếm, chúng là các dạng chính của sắt kim loại tự nhiên trên bề mặt Trái Đất.

Trong công nghiệp, sắt được trích xuất ra từ các quặng của nó, chủ yếu là từ hematit [Fe2O3] và magnetit [Fe3O4] bằng cách khử với cacbon trong lò luyện kim sử dụng luồng không khí nóng ở nhiệt độ khoảng 2000 ℃. Trong lò luyện, quặng sắt, cacbon trong dạng than cốc, và các chất tẩy tạp chất như đá vôi được xếp ở phía trên của lò, luồng không khí nóng được đưa vào lò từ phía dưới.

Than cốc phản ứng với oxy trong luồng không khí tạo ra cacbon monoxide:

2C + O2 → 2CO↑

Cacbon monoxide khử quặng sắt [trong phương trình dưới đây là hematit] thành sắt nóng chảy, và nó trở thành carbon dioxide:

3CO + Fe2O3 → 2Fe + 3CO2↑

Chất khử tạp chất được thêm vào để khử các tạp chất có trong quặng [chủ yếu là silic dioxide cát và các silicat khác]. Các chất khử tạp chất chính là đá vôi [calci cacbonat] và đolomit [magie cacbonat]. Các chất khử tạp chất khác có thể cho vào tùy theo các tạp chất có trong quặng. Trong sức nóng của lò luyện đá vôi bị chuyển thành vôi sống [CaO]:

CaCO3 → CaO + CO2↑

Sau đó calci oxide kết hợp với silic dioxide tạo ra xỉ.

CaO + SiO2 → CaSiO3

Xỉ nóng chảy trong lò luyện [silic dioxide thì không]. Ở phần dưới của lò luyện, xỉ nóng chảy do nhẹ hơn nên nổi lên phía trên sắt nóng chảy. Các cửa lò có thể được mở để tháo xỉ hay sắt nóng chảy. Sắt khi nguội đi, tạo ra gang thô, còn xỉ có thể được sử dụng để làm đường hay để cải thiện các loại đất nông nghiệp nghèo khoáng chất.

Khoảng 1,1 tỷ tấn quặng sắt được sản xuất trên thế giới vào năm 2000, với tổng trị giá trên thị trường vào khoảng 25 tỷ đôla Mỹ. Việc khai thác quặng sắt diễn ra trên 48 quốc gia, nhưng 5 nhà sản xuất lớn nhất là Trung Quốc, Brasil, Úc, Nga và Ấn Độ, chiếm tới 70% lượng quặng khai thác trên thế giới. 1,1 tỷ tấn quặng sắt này được sử dụng để sản xuất ra khoảng 572 triệu tấn sắt thô.

Vai trò sinh họcSửa đổi

Sắt có vai trò rất cần thiết đối với mọi cơ thể sống, ngoại trừ một số vi khuẩn. Nó chủ yếu liên kết ổn định bên trong các protein kim loại, vì trong dạng tự do nó sinh ra các gốc tự do nói chung là độc với các tế bào. Nói rằng sắt tự do không có nghĩa là nó tự do di chuyển trong các chất lỏng trong cơ thể. Sắt liên kết chặt chẽ với mọi phân tử sinh học vì thế nó sẽ gắn với các màng tế bào, acid nucleic, prôtêin v.v.

Tuy nhiên, hàm lượng Fe trong cơ thể là rất ít, chiếm khoảng 0,004% được phân bố ở nhiều loại tế bào của cơ thể.[13] Sắt là nguyên tố vi lượng tham gia vào cấu tạo thành phần Hemoglobin của hồng cầu, myoglobin của cơ vân và các sắc tố hô hấp ở mô bào và trong các enzim như: catalaz, peroxidaza… Fe là thành phần quan trọng của nhân tế bào. Cơ thể thiếu Fe sẽ bị thiếu máu nhất là phụ nữ có thai và trẻ em.

Trong cơ thể động vật sắt liên kết trong các tổ hợp heme [là thành phần thiết yếu của cytochromes], là những prôtêin tham gia vào các phản ứng oxy hóa-khử [bao gồm nhưng không giới hạn chỉ là quá trình hô hấp] và của các prôtêin chuyên chở oxy như hêmôglôbin và myoglobin.

Sắt vô cơ tham gia trong các phản ứng oxy hóa-khử cũng được tìm thấy trong các cụm sắt-lưu huỳnh của nhiều enzym, chẳng hạn như các enzym nitrogenase [tham gia vào quá trình tổng hợp amonia từ nitơ và hiđrô] và hydrogenase. Tập hợp các prôtêin sắt phi-heme có trách nhiệm cho một dãy các chức năng trong một số loại hình cơ thể sống, chẳng hạn như các enzym metan monooxygenase [oxy hóa mêtan thành mêtanol], ribonucleotide reductase [khử ribose thành deoxyribose; tổng hợp sinh học DNA], hemerythrins [vận chuyển oxy và ngưng kết trong các động vật không xương sống ở biển] và acid phosphatase tía [thủy phân các este phosphat]. Khi cơ thể chống lại sự nhiễm khuẩn, nó để riêng sắt trong prôtêin vận chuyển transferrin vì thế vi khuẩn không thể sử dụng được sắt.

Sự phân phối sắt trong cơ thể được điều chỉnh trong cơ thể động vật có vú. Sắt được hấp thụ từ duodenum liên kết với transferrin, và vận chuyển bởi máu đến các tế bào khác nhau. Vẫn chưa rõ cơ chế liên kết của sắt với các prôtêin.[14]

Các nguồn thức ăn giàu sắt bao gồm: thịt, cá, thịt gia cầm, đậu lăng, các loại đậu, rau chân vịt, tào phớ, đậu Thổ Nhĩ Kỳ, dâu tây và mầm ngũ cốc.

Sắt được bổ sung cho những người cần tăng cường chất này trong dạng sắt[II] fumarat. Tiêu chuẩn của RDA về sắt dao động dựa trên tuổi tác, giới tính, và nguồn sắt ăn kiêng [sắt trên cơ sở heme có khả năng sinh học cao hơn][15]

Cần lưu ý tới phần cảnh báo dưới đây.

Tính chất hóa họcSửa đổi

Tác dụng với phi kimSửa đổi

Sắt tác dụng với hầu hết tất cả các phi kim khi đun nóng. Với các phi kim có tính oxy hóa mạnh như clo thì sẽ tạo thành những hợp chất trong đó sắt có số oxy hóa là +3.Còn khi tác dụng với oxy sẽ tạo ra sắt[II, III]oxide – oxide sắt từ.

Ví dụ:

2Fe + 3Cl2 → 2FeCl3 FeO + Fe2O3 → Fe3O4 Fe + 2O2 → Fe3O4 [Vì khi Fe phản ứng với O2 ở nhiệt độ cao, 2 chất đã sinh ra cùng 1 lúc [FeO và Fe2O3] và lại tự xúc tác với nhau]

Fe3O4 là một hợp chất ion, tinh thể được tạo nên bởi các ion O2-, ion Fe3+ và ion Fe2+. Trong quá trình phản ứng, một phần sắt bị oxy hóa thành Fe2+, một phần bị oxy hóa thành Fe3+.Trong chất rắn trung bình cứ có 1 ion Fe2+ thì có 2 ion Fe3+ và 4 ion O2−.

Trong không khí ẩm sắt dễ bị gỉ theo phản ứng:

4Fe + O2 + nH2O → 2Fe2O3·nH2O

Đối với các phi kim yếu hơn như lưu huỳnh,..tạo thành hợp chất trong đó sắt có số oxy hóa +2:

Fe + S → FeS

Tác dụng với các hợp chấtSửa đổi

Thế điện cực chuẩn của sắt là: Fe2+[dd] + 2e → Fe Eo= -0,44 V

Qua đó ta thấy sắt có tính khử trung bình.

Sắt dễ tan trong dung dịch acid HCl và H2SO4 loãng:

Fe + 2HCl → FeCl2 + H2↑ Fe + H2SO4 → FeSO4 + H2↑

Hay FeO + 2H+[dd] → Fe+[dd] + H2↑

Đối với các acid có tính oxy hóa mạnh như HNO3 hay H2SO4 đặc nóng thì sản phẩm phản ứng sẽ là muối sắt với sắt có số oxy hóa +3 và các sản phẩm khử của N: N2O, NO, NO2 hoặc của S: SO2. Ở nhiệt độ thường, trong acid nitric đặc và acid sunfuric đặc, sắt tạo ra lớp oxide bảo vệ kim loại trở nên "thụ động", không bị hòa tan. Sắt đẩy các kim loại yếu hơn ra khỏi dung dịch muối của chúng:

Fe + Cu[NO3]2 → Fe[NO3]2 + Cu↓

Hợp chấtSửa đổi

Các trạng thái oxy hóa chung của sắt bao gồm:

  • Sắt carbide Fe3C được biết đến như là cementit.
  • Sắt[I] ít khi tồn tại, như sắt[I] hydride [FeH].
  • Trạng thái sắt[II], Fe2+, ferơ rất phổ biến.
  • Trạng thái sắt[III], Fe3+, ferric, cũng rất phổ biến, ví dụ trong gỉ sắt.
  • Trạng thái sắt[IV], Fe4+, feryl, ổn định trong các enzym [ví dụ peroxidas]. Hợp chất sắt[IV] vô cơ thường là những muối chứa ion FeO32−.[16]
  • Sắt cũng tồn tại ở trạng thái sắt[V], như K3FeO4.[17]
  • Sắt[VI] cũng được biết tới, nó hiếm hơn, có trong kali ferrat.
  • Sắt[VII] trước đây chưa được biết đến. Hiện nay, nó được biết đến dưới trạng thái ion peferrat FeO4−.[17]
  • Sắt cũng tồn tại dưới dạng sắt[VIII] nhưng rất hiếm, Na2FeO5 là một ví dụ.[18]

Xem thêm: Sắt oxide

Đồng vịSửa đổi

Sắt có bốn đồng vị tự nhiên ổn định là Fe54, Fe56, Fe57 và Fe58. Sự phổ biến tương đối của các đồng vị sắt trong tự nhiên là: Fe54 [5,8%], Fe56 [91,7%], Fe57 [2,2%] và Fe58 [0,3%].

Fe60 là đồng vị phóng xạ đã biến mất, nó có chu kỳ bán rã dài [2,6 triệu năm].[19] Đồng vị này không được tìm thấy trên Trái Đất mà nó là sản phẩm phân rã từ đồng vị niken-60. Phần lớn các công việc trong quá khứ để đo thành phần đồng vị của sắt tập trung vào việc xác định các biến thể của Fe60 vì các quá trình kèm theo sự tổng hợp hạt nhân [ví dụ nghiên cứu thiên thạch] và sự hình thành khoáng sản. Đồng vị Fe56 cũng gây ra sự đặc biệt chú ý của các nhà khoa học vì nó có thể là hạt nhân ổn định nhất. Không thể thực hiện các phản ứng phân hạch hay nhiệt hạch trên Fe56 mà có thể giải phóng năng lượng. Điều này thì lại không đúng với các nguyên tố khác.

Trong số các đồng vị ổn định, chỉ có Fe57 có spin −1/2. Vì lý do này, Fe57 có ứng dụng như là đồng vị spin trong hóa học và hóa sinh học.

Trong các pha của các thiên thạch Semarkona và Chervony Kut mối tương quan giữa mật độ của Ni60 [sản phẩm sinh ra của Fe60] và sự phổ biến của các đồng vị ổn định của sắt có thể được tìm thấy, nó chứng tỏ sự tồn tại của Fe60 trong thời gian hình thành của hệ Mặt Trời. Có khả năng là năng lượng giải phóng bởi sự phân rã của Fe60 góp phần cùng với năng lượng giải phóng bởi sự phân rã của hạt nhân phóng xạ Al26, để nung chảy lại và làm phân biệt các tiểu hành tinh sau sự hình thành của chúng trước đây 4,6 tỷ năm. Sự phổ biến của Ni60 hiện diện trong các vật chất ngoài Trái Đất có thể cung cấp thông tin để nhìn sâu hơn nữa vào nguồn gốc của hệ Mặt Trời cũng như lịch sử sơ kỳ của nó.[20]

Cảnh báoSửa đổi

Việc hấp thụ quá nhiều sắt gây ngộ độc, vì các sắt[II] dư thừa sẽ phản ứng với các peroxide trong cơ thể để sản xuất ra các gốc tự do. Khi sắt trong số lượng bình thường thì cơ thể có một cơ chế chống oxy hóa để có thể kiểm soát quá trình này. Khi dư thừa sắt thì những lượng dư thừa không thể kiểm soát của các gốc tự do được sinh ra.

Một lượng gây chết người của sắt đối với trẻ 2 tuổi là ba gam sắt. Một gam có thể sinh ra sự ngộ độc nguy hiểm. Danh mục của DRI về mức chấp nhận cao nhất về sắt đối với người lớn là 45mg/ngày. Đối với trẻ em dưới 14 tuổi mức cao nhất là 40mg/ngày.

Nếu sắt quá nhiều trong cơ thể [chưa đến mức gây chết người] thì một loạt các hội chứng rối loạn quá tải sắt có thể phát sinh, chẳng hạn như hemochromatosis. Vì lý do này, mọi người không nên sử dụng các loại hình sắt bổ sung trừ trường hợp thiếu sắt và phải có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.

Tham khảoSửa đổi

  1. ^ “Iron”. Micronutrient Information Center, Linus Pauling Institute, Oregon State University, Corvallis, Oregon. tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2018.
  2. ^ a b 潘悟云,《越南语中的上古汉语借词层》, 第三期, 温州师范学院学报(社会科学版), năm 1987, trang 44 và 45.
  3. ^ a b Kuhn, Howard and Medlin, Dana [prepared under the direction of the ASM International Handbook Committee] biên tập [2000]. ASM Handbook – Mechanical Testing and Evaluation [PDF]. 8. ASM International. tr.275. ISBN0-87170-389-0.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên [liên kết]
  4. ^ “Hardness Conversion Chart”. Maryland Metrics. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2010.
  5. ^ a b Kohl, Walter H. [1995]. Handbook of materials and techniques for vacuum devices. Springer. tr.164–167. ISBN1-56396-387-6.
  6. ^ Takaji, Kusakawa; Toshikatsu, Otani [1964]. “Properties of Various Pure Irons: Study on pure iron I”. Tetsu-to-Hagane. 50 [1]: 42–47.
  7. ^ Raghavan, V. [2004]. Materials Science and Engineering. PHI Learning Pvt. Ltd. tr.218. ISBN81-203-2455-2.
  8. ^ a b Boehler, Reinhard [2000]. “High-pressure experiments and the phase diagram of lower mantle and core materials”. Review of Geophysics. American Geophysical Union. 38 [2]: 221–245. Bibcode:2000RvGeo..38..221B. doi:10.1029/1998RG000053.
  9. ^ Bramfitt, B. L.; Benscoter, Arlan O. [2002]. “The Iron Carbon Phase Diagram”. Metallographer's guide: practice and procedures for irons and steels. ASM International. tr.24–28. ISBN978-0-87170-748-2.
  10. ^ a b Weeks 1968, tr.29.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFWeeks1968 [trợ giúp]
  11. ^ a b Weeks 1968, tr.31.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFWeeks1968 [trợ giúp]
  12. ^ Bryce, Trevor [2007]. Hittite Warrior. Osprey Publishing. tr.22–23. ISBN978-1-84603-081-9. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2013.
  13. ^ “Foods & Nutrition Encyclopedia, Two Volume Set”. Google Books. Truy cập 23 tháng 9 năm 2015.
  14. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2004. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2005.
  15. ^ “Bản sao đã lưu trữ” [PDF]. Bản gốc [PDF] lưu trữ ngày 27 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2005.
  16. ^ Barium ferrate, BaFeO3 trên atomistry.com
  17. ^ a b Inorganic Chemistry [Egon Wiberg, A. F. Holleman, Nils Wiberg; Academic Press, 2001 - 1884 trang], trang 1458. Truy cập 22 tháng 3 năm 2020.
  18. ^ Zinātniskie raksti: K̦īmijas fakultate, Số phát hành 5 [Universitāte, 1957], trang 234. Truy cập 22 tháng 3 năm 2020.
  19. ^ G. Rugel, T. Faestermann, K. Knie, G. Korschinek, M. Poutivtsev, D. Schumann, N. Kivel, I. Günther-Leopold, R. Weinreich, M. Wohlmuther: New Measurement of the 60 Half-Life. In: Physical Review Letters. 103, 2009, S., doi:10.1103/PhysRevLett.103.072502.
  20. ^ Mostefaoui, S.; Lugmair, G.W.; Hoppe, P.; El Goresy, A. [2004]. “Evidence for live 60Fe in meteorites”. New Astronomy Reviews. 48: 155. Bibcode:2004NewAR..48..155M. doi:10.1016/j.newar.2003.11.022.

Đọc thêmSửa đổi

  • Doulias PT, Christoforidis S, Brunk UT, Galaris D. Endosomal and lysosomal effects of desferrioxamine: protection of HeLa cells from hydrogen peroxide-induced DNA damage and induction of cell-cycle arrest. Free Radic Biol Med. 2003;35:719-28.
  • H. R. Schubert, History of the British Iron and Steel Industry... to 1775 AD [Routledge, London, 1957]
  • R. F. Tylecote, History of Metallurgy [Institute of Materials, London 1992].
  • R. F. Tylecote, 'Iron in the Industrial Revolution' in J. Day and R. F. Tylecote, The Industrial Revolution in Metals [Institute of Materials 1991], 200-60.
  • Vai trò của sắt trong phát triển nền văn minh nhân loại

Liên kết ngoàiSửa đổi

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Sắt.
  • Los Alamos National Laboratory – Iron
  • WebElements.com – Iron
  • It's Elemental – Iron

Các hợp chất Fe [sắt ]Sửa đổi

Video liên quan

Chủ Đề