Tại sao lưu bị thất bại

Sau đó dù rất căm giận Tôn Quyền nhưng vì đại cuộc ông vẫn chấp nhận giảng hòa.

Theo tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của nhà văn La Quán Trung, một trong những nguyên nhân chính để dẫn đến cuộc chiến Di Lăng đó chính là cái chết của Quan Vũ. Khi Lưu Bị lệnh cho Quan Vũ giữ thành Kinh Châu, ông vô tình đã mắc mưu Lữ Mông từ đó bỏ mạng. Khi hay tin Lữ Mông ngấm ngầm liên kết với quân Ngụy để sát hại nhị đệ của mình, Lưu Bị tức giận khôn xiết, quyết đem lòng trả thù cho người huynh đệ kết nghĩa này.

Tại sao lưu bị thất bại

Quan Vũ mắc mưu Lữ Mông từ đó bỏ mạng. Ảnh: Sohu

Trước quyết định của Lưu Bị, Gia Cát Lượng đã ra sức can gián nhưng không được. Học sĩ Ích Châu là Tần Mật tiếp tục dùng thiên văn can gián. Lưu Bị tức giận tống giam Tần Mật. Tướng Hoàng Quyền cũng khuyên Lưu Bị không nên mạo hiểm thân chinh mà chỉ cần sai một viên tướng đi đông chinh, bản thân Hoàng Quyền tình nguyện lãnh trách nhiệm đánh Ngô, nhưng Lưu Bị cũng không chịu, nhất quyết thân chinh đi đánh Ngô.

Triệu Vân (Triệu Tử Long) cũng lên tiếng khuyên can, cho rằng, nếu Thục Hán giao đấu với Đông Ngô, trận chiến này sẽ không thể kết thúc trong một sớm một chiều, đây không phải là thượng sách. Theo ông, kẻ thù thực sự của Thục Hán là họ Tào chứ không phải họ Tôn nên chủ trương tiêu diệt Tào quân trước, Tôn Quyền tất sẽ quy phục.

Hơn nữa, mặc dù Tào Tháo đã mất nhưng Tào Phi đã lấn át ngai vàng nhà Hán. Cho nên, ưu tiên hàng đầu là thuận theo lòng dân, sớm đoạt lấy Quan Trung, kiểm soát thượng nguồn Hoàng Hà, Vị Thủy, để thuận tiện chinh phạt phản nghịch, hiệu triệu nghĩa sĩ Quan Đông, phụng sự Hán Hiến Đế. Tuy nhiên, Lưu Bị cũng bỏ ngoài tai.

Do thái độ tức giận và kiên quyết của Lưu Bị, không ai dám can gián nữa. Ông giao cho thừa tướng Gia Cát Lượng giúp thái tử Lưu Thiện giữ Thành Đô, đích thân cầm quân ra trận.

Tại sao lưu bị thất bại

Lưu Bị nóng lòng báo thù cho Quan Vũ và Trương Phi. Ảnh: Sohu

Trong khi toàn quân đang tập hợp chưa xuất phát thì ông lại mất Trương Phi vì bị các thủ hạ Phạm Cương, Trương Đạt sát hại vào tháng 5 năm 221. Sau đó Phạm Cương, Trương Đạt chạy sang hàng Đông Ngô. Lưu Bị đau đớn, muốn trút hết căm giận lên Tôn Quyền. Như đổ dầu vào lửa, Lưu Bị nổi cơn lôi đình và lập tức xuất quân tiến về phía đông. Kết quả sau đó, đại quân của Lưu Bị đại bại trước đội quân của Tôn Quyền ở Di Lăng.

Nguyên nhân Lưu Bị chấp nhận giảng hòa với Đông Ngô

Thất bại Di Lăng khiến Lưu Bị suy sụp, nhưng ngay sau đó Ngô - Ngụy cũng xảy ra chiến tranh. Không ngoài dự tính của Lục Tốn, Tào Phi nhân lúc Ngô - Thục giao tranh bèn dẫn quân nam tiến đánh Ngô. Tôn Quyền, Lục Tốn lại phải huy động tướng sĩ ra sức chống trả. Hai bên giằng co ở Giang Lăng - Nam quận.

Lưu Bị nghe tin Lục Tốn đối trận với Tào Phi, bèn viết thư cho Lục Tốn nói:

"Nay giặc (Tào Phi) đã đến tại Giang Lăng, tướng của ta lại đến phía đông, tướng quân nói xem có được không?".

Lục Tốn xem thư hiểu hàm ý của ông, bèn viết thư trả lời, một mặt vạch rõ quân Thục mới bị trọng thương không thể ra trận, mặt khác chủ động đề nghị giảng hòa. Tán thành với đề nghị của Lục Tốn, cuối năm 222, Tôn Quyền sai Trịnh Tuyền làm sứ đến thành Bạch Đế gặp Lưu Bị, xin giảng hòa.

Lưu Bị cân nhắc, ông không thể để Đông Ngô diệt vong, nếu không bản thân mình cũng lâm nguy vì Tào Ngụy rất mạnh. Vì vậy ông chấp nhận đề nghị giảng hòa của Tôn Quyền và sai Tôn Vĩ sang Đông Ngô đáp lễ Tôn Quyền. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là 2 hoạt động ngoại giao khởi động lại cho hòa bình giữa hai bên sau chiến tranh, hai bên đồng ý giảng hòa để kết thúc tình trạng thù hận nhưng chưa có thỏa thuận gì khác về tái hợp liên minh chống Tào Ngụy.

Tuy giảng hòa được với Đông Ngô nhưng thất bại Di Lăng vẫn là đòn chí mạng đối với Lưu Bị. Vì không thể chiếm lại Kinh Châu nên những kế hoạch trong Long Trung đối sách mà Gia Cát Lượng đề ra được Lưu Bị chấp thuận và suốt đời theo đuổi không thể thực hiện được nữa, việc đánh Tào Ngụy khôi phục trung nguyên cũng khó mà còn cơ hội. Sau đó, do bệnh tình của Lưu Bị nguy kịch nên hoạt động ngoại giao của hai nước bị gián đoạn.

Có thể nói, quyết định tiến đánh Đông Ngô của Lưu Bị, ngay từ khi bắt đầu đã là một quyết định sai lầm, bởi lẽ nó đi ngược lại hoàn toàn với kế sách của binh pháp Tôn Tử và của Khổng Minh là Tôn - Ngô liên minh phạt Ngụy.

Tuy nhiên, vì muốn trả thù cho em, Lưu Bị đã bỏ ngoài tai những lời can gián của thuộc hạ, tự mình dẫn quân đánh Tôn Quyền. Cuối cùng dẫn đến thất bại ở Di Lăng, vì hối hận trước hàng loạt sai lầm của bản thân, Lưu Bị không dám về Thành Đô nữa, mà ở lại thành Bạch Đế, ôm bệnh rồi mất một năm sau.

Theo PV/Người Đưa Tin

Quyết định sai lầm dẫn đến bại vong

Năm 221, sau khi Quan Vũ bị giết do thất thủ Kinh Châu, Lưu Bị vì tức giận đã khởi binh đánh Đông Ngô. Tôn Quyền nghe tin Lưu Binh đích thân ra trận, liền gửi thư cầu hòa, nhưng phía Thục Hán cự tuyệt thẳng thừng.

Giữa lúc đang chuẩn bị xuất quân, Lưu Bị nhận được tin dữ là Trương Phi bị thuộc hạ giết chết, tâm trạng thêm phần kích động, càng quyết tâm triệt hạ Tôn Quyền.

Nhưng chính sự nóng nảy này đã khiến Lưu Bị tự đẩy mình vào cửa tử.

Nói về việc Lưu Bị vì bị đả kích trước cái chết của hai huynh đệ mà khởi binh đánh Ngô, nhiều người cho rằng nguyên nhân này không thỏa đáng.

Một bậc đế vương đã chinh chiến bao năm, dẹp loạn bốn cõi, xưng đế một phương, hẳn phải là một người lý trí, chứ không dễ dàng bị kích động như vậy. Cái chết của Quan Vũ và Trương Phi rất có thể chỉ là cái cớ để Lưu Bị động binh tiêu diệt Tôn Quyền.

Cuộc chiến Thục – Ngô này từ lâu đã nằm trong suy tính của Hán Trung vương. Từ sau trận Xích Bích, thế “chân vạc” giữa 3 thế lực Ngụy – Thục – Ngô đã hình thành.

So về lực lượng giữa ba nước lúc bấy giờ, Ngụy là mạnh nhất, sau đến Ngô, chỉ có Thục là lép vế hơn cả. Nhưng lúc này, Lưu Bị vừa xưng đế, lập ra nhà Thục Hán, quân dân trên dưới đồng lòng, sĩ khí dâng cao ngút trời, chính là “thiên thời, địa lơi” để xuất binh.

Về việc lựa chọn thế lực nào để tiêu diệt đầu tiên, Lưu Bị từ lâu đã có suy tính. Dẹp Ngụy ngay lúc đó là điều không thể, bởi lấy yếu chống mạnh chẳng khác nào tự đẩy mình vào cửa tử.

Mặt khác, Tào Tháo vừa qua đời, con trai Tào Phi lên nắm quyền, trước mắt sẽ cần thời gian để ổn định triều chính, nên Lưu Bị tạm thời yên lòng. Vì vậy mục đích chinh phạt lần này của Hán Trung Vương chính là nước Ngô của Tôn Quyền.

Nhưng Ngô vương Tôn Quyền cũng được coi là một bậc kỳ tài, trước đánh Giang Đông, sau được lòng dân, lại vừa  cướp được Kinh Châu, lực lượng càng ngày càng mạnh. Điều này khiến Lưu Bị thêm phần lo lắng.

Nhưng nếu diệt được Đông Ngô, ắt có thể chiếm được đại bộ phận phía Nam Trung Nguyên, củng cố lực lượng phía Tây, rồi sẽ tập trung tài lực tiêu diệt nước Ngụy ở phía Bắc.

Vốn là người cơ hội, Lưu Bị chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt, nên đã bất chấp rủi ro, đích thân xuất quân chinh phạt Đông Ngô, để rồi rước lấy thất bại ê chề.

Trước đó, Gia Cát Lượng từng đưa ra “Long Trung đối sách”, khuyên Lưu Bị thỏa hiệp với Tôn Quyền để liên minh chống Ngụy Tào. Nhưng vốn nuôi mộng bá chủ, lại vừa bị đả kích bởi cái chết của huynh đệ, Lưu Bị đã bỏ qua lời khuyên này.

Tại sao lưu bị thất bại

Là một người cơ hội, nên Lưu Bị đã nhiều lần bỏ qua những lời khuyên can có tính toán trước sau của Gia Cát Lượng.

Dù vậy, cái chết của Quan Vũ chỉ được coi là chất xúc tác chứ không phải là nguyên nhân chính khiến Lưu Bị “kích động xuất binh”. Hai năm sau khi Vũ mất, chiến tranh Thục Hán – Đông Ngô mới nổ ra.

Tuy nhiên, Lưu Bị đã quá tự phụ vào sức mạnh của Thục Hán. Nếu như coi Tào Tháo là một “ông lớn”, Tôn Quyền như một “kẻ gian thương”, thì Lưu Bị so với hai người này lại bị đánh giá là “vô dụng”.

Vậy nhưng dù là Tào Tháo hay Tôn Quyền, đối với Lưu Bị đều không hề xem nhẹ.

Thành công của Lưu Bị trong việc dựng nước là không thể nghi ngờ. Tuy nhiên, trong cuộc thảo phạt Đông Ngô, ông đã chuốc thất bại thảm hại, phải lui quân đến thành Bạch Đế, cuối cùng hi sinh tại đây vào năm Chương Võ thứ 3 của nhà Thục hán (năm 223).

Di ngôn đầy ẩn ý của Lưu Bị

Trước khi thất thủ, Lưu Bị có hàn huyên cùng các đại thần. Trước mặt bá quan văn võ, ông đã cầm tay Gia Cát Lượng nói: “Khanh còn tài gấp mười lần Tào Phi, tất có thể làm cho quốc thái dâng an, hoàn thành nghiệp lớn.

Nếu như con trai ta có thể phò tá thì khanh phò tá, còn nếu nó là kẻ bất tài vô dụng thì khanh hãy lên làm vương.”

Lưu Bị nói ra lời như vậy, các đại thần đều vô cùng sợ hãi, ngay cả Gia Cát Lượng cũng không khỏi giật mình. Bởi lẽ chủ động “mời” người ngoại tộc đoạt lấy ngai vị, đây chính là hành động dâng cả giang sơn vào tay người khác.

Gia Cát Lượng nghe xong, nước mắt chảy thành dòng, lập tức quỳ xuống mà nói: “Thần xin nguyện một lòng tận trung, không dám có nửa điều khi quân, nếu không sẽ lấy cái chết để tạ tội.”

Lưu Bị thấy vậy liền cầm tay Lưu Thiện mà căn dặn: “Sau này con phải phụng dưỡng Thừa tướng (Gia Cát Lượng) như phụng dưỡng phụ hoàng!”

Hành động và lời nói của Lưu Bị trước khi qua đời đã tạo ra nhiều luồng tranh cãi. Liệu Lưu Bị có thực sự muốn truyền giang sơn Thục Hán cho Khổng Minh?

Hẳn nhiều người sẽ nghĩ rằng, Lưu Bị đối với Gia Cát Lượng vô cùng tín nhiệm, nên mới đưa ra quyết định táo bạo trên. Trước đó, ông đã từng ba lần tới tận lều cỏ để mời Lượng về triều.

Tuy nhiên nhiều tư liệu lịch sử đã chứng minh, Lưu Bị không thực sự trọng dụng Khổng Minh như hậu thế vẫn nghĩ.

Tại sao lưu bị thất bại

Bên cạnh Gia Cát Lượng, Lưu Bị dành sự tín nhiệm cho khá nhiều người trong đó có Lý Nghiêm, Bàng Thống...

Một số quan điểm khác lại cho rằng, Lưu Bị ở đây không hoàn toàn tin tưởng Lượng.

Bản thân ông cũng nể phục tài của Khổng Minh, nên muốn vị đại thần này cúc cung tận tụy phò tá con trai mình. Đây chính là quang minh chính đại đẩy cho Gia Cát Lượng một trách nhiệm nặng nề.

Trong khi đó, có ý kiến khẳng định, câu nói trước lúc lâm chung chính là đòn thử lòng của Lưu Bị với Gia Cát Khổng Minh. Nếu như nghe xong những lời đó mà Lượng có nửa điểm vui mừng, lập tức sẽ bị đưa ra ngoài chém đầu vì mưu đồ phản trắc.

Tuy nhiên quan điểm này có phần phi lý. Bởi Gia Cát Lượng vốn nổi tiếng thông minh, làm sao có thể để vui buồn lộ ra trên mặt. Nếu như Lượng thực sự có mưu đồ đoạt lấy giang sơn, việc gì phải dại dột thể hiện ra bên ngoài như vậy?

Quan điểm cuối cùng có phần thuyết phục hơn thì cho rằng,  trong tình huống này, Lưu Bị giao cho Gia Cát Lượng quyền phế lập, muốn Lượng chọn một trong hai người con trai của mình làm Hoàng đế, chứ không phải có ý nhường ngôi cho Lượng.

Dù có nhiều bất đồng, nhưng các quan điểm trên đều thống nhất một điều là Lưu Bị không hề muốn đem giang sơn cả đời gây dựng cho Gia Cát Lượng.

Căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, dù cho lúc đó bị Đông Ngô đả kích nặng nề, Lưu Bị cũng không dại dột đến nỗi nói ra những lời thiếu nhuệ khí này trước mặt quần thần.

Cả đời ông theo đuổi ước vọng phục dựng Đại Hán của Thái tổ Lưu Bang, mà Lưu Bang trước kia giao ước với quần thần: “Ai không phải họ Lưu mà làm vương thì thiên hạ cùng đánh nó.” Lưu Bị vì thế càng không thể làm ngơ trước lời thể của của tổ tiên.

Mặt khác trong bối cảnh thời đại phong kiến lúc bấy giờ, không thể tồn tại khả năng Lưu Bị dâng giang sơn tặng cho người khác. Lịch sử Trung Hoa mấy nghìn năm qua cũng chưa từng có một vị Hoàng đế nào tự nguyện dâng đất nước cho người ngoại tộc.

Theo Trần Quỳnh