Tại sao Hoa Kỳ lại kí hiệp ước thương mại với Việt Nam

  • Trang chủ
  • Chi tiết tin tức

Nhằm giúp các doanh nghiệp nắm bắt được một số thông tin cần thiết cho việc hội nhập kinh tế quốc tế và định hướng phát triển doanh nghiệp. Sở Công Thương thông tin đến các doanh nghiệp một số hiệp định thương mại và Việt Nam đã tham gia ký kết trong thời gian qua.

Nội dung, cơ hội và thách thức của các Hiệp định thương mại tự do [FTA]: Các hiệp định thương mại tự do đã ký kết và thực thi:

       Có 12 FTA đã ký kết và thực thi: ASEAN-AEC; ASEAN - Ấn Độ; ASEAN – Australia/New Zealand; ASEAN – Hàn Quốc; ASEAN – Nhật Bản;  ASEAN – Trung Quốc; ASEAN – Hồng Kông; Việt Nam – Nhật Bản; Việt Nam – Chi lê; Việt Nam – Hàn Quốc; Việt Nam – Liên minh kinh tế Á Âu; CTPP.

Khi Việt Nam tham gia các FTA thế hệ mới, chắc chắn độ mở cửa của Việt Nam cũng như các đối tác là rất sâu [do cam kết xóa bỏ phần lớn các dòng thuế, mở cửa mạnh các ngành dịch vụ, do phạm vi cam kết rất rộng bao gồm những cam kết về nhiều lĩnh vực mới mà Việt Nam chưa từng cam kết mở cửa trước đây]. Bên cạnh đó, các FTA thế hệ mới có nhiều cam kết ảnh hưởng trực tiếp và lớn đến các vấn đề sau đường biên giới [như thể chế, chính sách, pháp luật nội địa]. Do đó, bên cạnh những lợi ích kỳ vọng có thể đem lại thì những thách thức gia nhập sân chơi hội nhập quốc tế mới sẽ lớn hơn rất nhiều đối với Việt Nam. Các FTA thế hệ mới mở ra một con đường, thậm chí là một đại lộ rất thênh thang cho Việt Nam, nhưng vấn đề là “cỗ xe” kinh tế Việt Nam được chuẩn bị như thế nào để đi trên con đường này đảm bảo an toàn và tới đích, đó mới là quan trọng.

1. Cộng đồng Kinh tế ASEAN [AEC]:

Ngày 22/11/2015: Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 27, các nhà lãnh đạo ASEAN đã ký kết Tuyên bố Kuala Lumpur về việc thành lập AEC.

Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam:

Cơ hội Khi các mục tiêu của AEC được hoàn tất, AEC sẽ mang lại những cơ hội lớn cho nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là:

AEC mở ra một khu vực thị trường chung rộng lớn: với gần 100% hàng hóa được tự do lưu chuyển trong nội khối, AEC tạo ra một khu vực thị trường hàng hóa chung giữa các nước ASEAN, mở ra cơ hội làm ăn kinh doanh lớn cho các doanh nghiệp trong khu vực;

AEC mở ra cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: môi trường kinh doanh được mở rộng theo hướng minh bạch và bình đẳng hơn sẽ là điều kiện để thu hút đầu tư nước ngoài không những từ các nước ASEAN mà cả từ các nước ngoại khối, đặc biệt là các nước đối tác FTA của ASEAN vào Việt Nam để tham gia và chuỗi giá trị khu vực;

AEC tạo ra sức ép, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam: tham gia vào một sân chơi chung và chịu áp lực cạnh tranh từ các đối tác khu vực cả về trình độ quản lý, công nghệ và nhân lực sẽ buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải tự cải tổ, thay đổi, nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể tồn tại và phát triển.

AEC tạo ra khí thế và động lực cho doanh nghiệp: Với tinh thần chuẩn bị cho việc hình thành AEC vào cuối năm 2015 và những trông đợi về một khu vực thị trường chung năng động với nhiều cơ hội mở ra, các doanh nghiệp Việt Nam dường như đã được thức tỉnh để chuẩn bị tư thế và hành tranh cho tiến trình hội nhập mạnh mẽ sắp tới.

 Thách thức:

Thách thức lớn nhất trong AEC đối với Việt Nam hiện tại là sức ép cạnh tranh từ hàng hóa từ các nước ASEAN: với cơ cấu sản phẩm tương đối giống nhau ở cả 10 nước ASEAN, việc mở cửa thị trường sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh rất lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp có sức cạnh tranh yếu và ở các ngành vốn được bảo hộ cao từ trước tới nay. Trong tương lai, khi các mục tiêu AEC được hoàn tất, những sức ép từ các khía cạnh khác sẽ xuất hiện, thách thức vì vậy sẽ mở rộng ra các vấn đề khác.

Thách thức về dịch vụ: Nếu mục tiêu tự do lưu chuyển dịch vụ trong AEC được hiện thực hóa, các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ chắc chắn sẽ bị đặt trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hơn nhiều [bởi hiện nay các rào cản/điều kiện đối với nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài vào Việt Nam vẫn còn tương đối cao, do đó doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam hiện đang được “bao bọc” khá kỹ lưỡng trong nhiều lĩnh vực dịch vụ];

Thách thức về lao động: Khi AEC hoàn tất mục tiêu tự do lưu chuyển lao động, nếu không có sự chuẩn bị đầy đủ, lao động Việt Nam tay nghề kém, thiếu các kỹ năng cần thiết [ngoại ngữ, tính chuyên nghiệp…] có thể sẽ gặp khó khăn lớn.

Khuyến nghị đối với doanh nghiệp

Với tính chất là mục tiêu mang tính lộ trình, và với cấu thành là những Hiệp định, Thỏa thuận đã và đang thực hiện, tại thời điểm hình thành AEC [cuối năm 2015], cơ chế cũng như chính sách thương mại với các nước ASEAN sẽ không có thay đổi gì đáng kể so với hiện tại, và do đó cũng sẽ không tạo tác động gây sốc nào đối với các doanh nghiệp Việt Nam.

Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn cần chủ động để tìm hiểu các nội dung và cam kết của các Hiệp định đang có hiệu lực trong AEC để tận dụng các cơ hội và hạn chế thách thức từ việc thực thi các hiệp định này. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần quan tâm tới lộ trình thực hiện các mục tiêu tương lai của AEC để có sự chuẩn bị sẵn sàng cho một khu vực thị trường và sản xuất chung sẽ được hình thành khi các mục tiêu của AEC được hoàn tất.

Ngoài ra, AEC không phải là mục tiêu hội nhập duy nhất của Việt Nam, bên cạnh đó còn rất nhiều các FTA khác với các đối tác quan trọng, dự kiến sẽ có tác động lớn, mang tính cộng hưởng đến nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy, doanh nghiệp cần tập trung mọi nỗ lực để nâng cao năng lực cạnh tranh, trong đó có cả việc tận dụng các cơ hội hội nhập để nâng cao năng lực cạnh tranh, qua đó có thể tồn tại và phát triển được trong thời gian tới khi Việt Nam hội nhập sâu hơn nữa vào nền kinh tế thế giới.

    2. Hiệp định Thương mại hàng hoá ASEAN-Ấn Độ [AITIG]

          Theo Hiệp định này, Ấn Độ cam kết cắt giảm thuế quan đối với nhiều mặt hàng Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu như hàng may mặc, dày dép, gỗ và sản phẩm gỗ, thủy sản, than đá, cao su, sắt thép...

Cơ hội:

Với vị trí của trung tâm trong khu vực ASEAN và Tiểu vùng sông Mêkông, Việt Nam là đối tác quan trọng trong mối quan hệ giữa Ấn Độ với Việt Nam nói riêng và ASEAN nói chung. Với AITIG, hai nước sẽ có thêm nhiều động lực hợp tác, không chỉ trong thương mại mà còn có tiềm năng rất lớn trong các lĩnh vực công nghiệp, khai thác dầu khí, khoáng sản, đầu tư, khoa học công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, phát triển cơ sở hạ tầng, chế biến nông sản, công nghệ thông tin, du lịch, hàng không, y tế, giáo dục... Thông qua đó sẽ tiếp tục tăng cường cho mối quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước và trong khu vực.

Trong thời gian tới, khi mức thuế xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Ấn Độ được cắt giảm theo lộ trình, doanh nghiệp Việt Nam cần nhanh chóng tận dụng lợi thế về thuế do Hiệp định mang lại. Sẽ có nhiều mặt hàng của Việt Nam được hưởng thuế 0-7% tại thị trường Ấn Độ và do cách tính thuế của Ấn Độ, hàng hoá của Việt Nam sẽ có lợi rất nhiều khi xuất khẩu vào thị trường Ấn Độ.

Doanh nghiệp Việt Nam cũng cần tích cực tham gia các hội chợ, triển lãm và các hoạt động xúc tiến thương mại tại Ấn Độ. Một trong những hoạt động điển hình là Hội chợ ASEAN-Ấn Độ-AIBF, sáng kiến do Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh đưa ra tại hội nghị cấp cao ASEAN-Ấn Độ ở Thái Lan hồi tháng 9/2009 sau khi Hiệp định thương mại về hàng hóa ASEAN-Ấn Độ được chính thức ký kết, với mục tiêu tăng cường quan hệ thương mại và đầu tư. Hội chợ được tổ chức thường niên từ năm 2011 tại Ấn Độ với sự tham gia của nước chủ nhà và 10 thành viên ASEAN.

Việc thực hiện các thỏa thuận của FTA ASEAN-Ấn Độ đang mở ra những cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời cũng đặt họ trước những thách thức, đòi hỏi cải thiện năng lực kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh. Do đó, ngay từ bây giờ, các doanh nghiệp cần chủ động hơn để nắm bắt tốt những cơ hội và vượt qua những thử thách mà FTA này mang lại.

Thách thức

Theo cam kết trong Hiệp định, nhiều mặt hàng xuất khẩu có lợi thế của Việt Nam lại thuộc danh mục nhạy cảm của Ấn Độ, tức có lộ trình cắt giảm thuế chậm, như dệt may, da giày, sản phẩm nhựa, máy móc, thiết bị, phụ tùng. Còn một số mặt hàng như thủy sản, rau quả, thực phẩm chế biến, sản phẩm dệt may, phương tiện vận tải… lại thuộc danh mục loại trừ, tức Ấn Độ không cam kết giảm thuế.

Bên cạnh đó, khi chúng ta mở cửa theo Hiệp định, do cơ cấu xuất khẩu của ta và Ấn Độ có nhiều điểm tương đồng, sẽ có nhiều mặt hàng, ngành hay lĩnh vực phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu, nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất hoặc giải thể do không cạnh tranh được. Đây là thực tế của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà các bên tham gia cần phải đối mặt và nỗ lực để vượt qua.

Trong khi doanh nghiệp Việt Nam chưa tận dụng tốt Hiệp định để thâm nhậm vào thị trường Ấn Độ đầy tiềm năng thì doanh nghiệp Ấn Độ khá năng động. Hiện có hơn 100 văn phòng đại diện của doanh nghiệp Ấn Độ tại thị trường Việt Nam để xúc tiến xuất khẩu hàng hoá, đầu tư.

3. ASEAN – Australia/New Zealand

ASEAN, Australia và New Zeland ký kết Hiệp định thành lập Khu vực thương mại tự do ASEAN-Australia-New Zealand [AANZFTA] ngày 27/2/2009, có hiệu lực từ ngày 1/1/2010. Đây là thỏa thuận thương mại tương đối toàn diện, bao gồm rất nhiều cam kết về hàng hóa, dịch vụ [gồm cả dịch vụ tài chính và viễn thông], đầu tư, thương mại điện tử, di chuyển thể nhân, sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh và hợp tác kinh tế.

Cơ hội:

AANZFTA đã giảm và loại bỏ thuế quan trên nhiều mặt hàng xuất khẩu của New Zealand vào thị trường Đông Nam Á chủ chốt, và dự kiến sẽ tiết kiệm chi phí 71 triệu NZ$ cho các nhà xuất khẩu New Zealand trong năm nay và dự kiến sẽ tăng lên khoảng 96 triệu $ một khi loại bỏ hoàn toàn thuế quan sau năm 2020.

Thách thức:

Không phải là tất cả các doanh nghiệp tận dụng AANZFTA khi xuất khẩu sang ASEAN ngoài việc hưởng lợi từ hạ thấp hàng rào thuế quan, các nhà xuất khẩu của cả hàng hóa và dịch vụ cũng phải đối mặt với một số lượng ngày càng tăng của các hàng rào phi thuế quan như hạn ngạch nhập khẩu, trợ cấp, sự chậm trễ thủ tục hải quan và các rào cản kỹ thuật khác.

Khi ký kết AANZFTA, 12 các bên tham gia thỏa thuận dự kiến rằng AANZFTA sẽ là một "tài liệu sống", có khả năng đáp ứng nhu cầu và tình hình kinh tế đang tiến triển trong khu vực. Trong bối cảnh kinh tế khu vực đã có thêm một số phát triển quan trọng kể từ khi thực thi HĐ này như: Hiệp định TPP đã ký kết trong 2016, các cuộc đàm phán hướng tới quan hệ đối tác kinh tế toàn diện khu vực [RCEP] tiến triển, và Cộng đồng Kinh tế ASEAN [AEC] đã hình thành… 

Yêu cầu về xuất xứ sản phẩm, hàng hóa của hai thị trường này cũng cao hơn yêu cầu trong một số hiệp định tự do thương mại khác. Cụ thể, hàm lượng giá trị khu vực của hàng hóa không được dưới 40%, trong khi trong hiệp định ASEAN - ấn Độ, hàm lượng này chỉ yêu cầu 35%. Quy tắc xuất xứ trong AANZFTA khá mở, nhưng phức tạp, liên quan nhiều đến kỹ thuật. Ngoài ra, hai thị trường này có thị hiếu tiêu dùng khác biệt, chưa có nhiều thông tin được cung cấp cho doanh nghiệp. Trong khi đó, tại các quốc gia này, hàng hóa, sản phẩm của Việt Nam cũng chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các loại sản phẩm tương tự từ Trung Quốc, Ấn Độ.  Và kinh phí để tiếp cận, tìm hiểu các thị trường này là áp lực không nhỏ đối với doanh nghiệp.

4. Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc [VKFTA]

Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc [VKFTA] được ký kết ngày 5/5/2015 và chính thức có hiệu lực từ ngày 20/12/2015.

Cơ hội:

Cơ hội từ Xuất khẩu: So với AKFTA, trong VKFTA Hàn Quốc mở cửa nhiều hơn cho các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam do đó các doanh nghiệp sẽ có thêm cơ hội tiếp cận thị trường này:

- Hàn Quốc lần đầu tiên mở cửa thị trường đối với một số  sản phẩm được coi là nhạy cảm cao của nước này  như tỏi, gừng, mật ong, khoai lang…  [thuế nhập khẩu của Hàn Quốc đối với những mặt hàng này  hiện rất cao từ 241-420%]. Đây là cơ hội rất lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản của Việt Nam.

- Trong các nước ASEAN, Việt Nam  là nước thứ  hai có FTA song phương với Hàn Quốc sau Singapore [Hàn Quốc hiện cũng đang đàm phán FTA với Indonesia]. Vì vậy trong ngắn hạn thì Việt Nam sẽ có lợi thế cạnh tranh lớn hơn so với các đối thủ ASEAN còn lại.

- Thị trường Hàn Quốc tuy là một thị  trường phát triển với các yêu cầu và đòi hỏi tương đối cao nhưng nhìn chung vẫn dễ  tính hơn các thị trường như EU, Mỹ hay Nhật Bản. Do đó, việc tăng cường quan hệ thương mại với thị trường này là bước chuẩn bị/tập dượt tốt cho các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới khi tiến sâu hơn vào các thị trường khó tính hơn.

- Trong các FTA trước đây của Việt Nam, AKFTA là FTA mà Việt Nam tận dụng được tốt nhất các lợi thế về thuế quan – có tới 70-80% hàng hóa xuất khẩu sang Hàn Quốc đáp  ứng được yêu cầu về  quy tắc xuất xứ  để  được hưởng ưu đãi thuế quan từ Hiệp định. Vì vậy, VKFTA cũng được kỳ vọng sẽ có tỉ lệ tận dụng cao như vậy để đem lại nhiều lợi ích xuất khẩu hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam.

Cơ hội từ Nhập khẩu: Hiện tại Việt Nam đang nhập siêu từ Hàn Quốc, nếu thuế nhập khẩu từ Hàn Quốc được tiếp tục giảm so với với AKFTA thì người tiêu dùng,  các doanh nghiệp nhập khẩu cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng nguyên liệu nhập khẩu từ Hàn Quốc sẽ được hưởng thêm nhiều lợi ích từ FTA này.

Ngoài ra, dự kiến Quy tắc xuất xứ trong FTA giữa Việt Nam với EU  [EVFTA] sẽ cho phép cộng gộp xuất xứ nguyên liệu nhập khẩu từ Hàn Quốc để được hưởng ưu đãi thuế quan khi xuất khẩu sang EU. Nếu  như vậy việc giảm thuế  cho các nguyên liệu nhập khẩu từ Hàn Quốc theo VKFTA sẽ giúp các doanh nghiệp hưởng lợi ở cả EVFTA.

Cơ hội từ thu hút Đầu tư: Trong nhiều năm qua, Hàn Quốc là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam. Các cam kết mở cửa thị trường rộng hơn cho dịch vụ và đầu tư của Hàn Quốc, cũng như các cam kết bảo hộ đầu tư, đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư từ nước này theo VKFTA sẽ là động lực để tăng cường thu hút đầu tư từ Hàn Quốc vào Việt Nam.

Thách thức:

Thách thức trong việc tiếp cận thị trường Hàn Quốc

- So với thị trường các nước ASEAN [hơn 600 triệu dân] hay Trung Quốc [gần1.400 triệu dân] thì thị trường Hàn Quốc được coi là tương đối nhỏ  [chỉ khoảng 50 triệu dân] trong khi đó yêu cầu về chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm hay tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng hóa nhập khẩu cao hơn nhiều so với thị  trường các nước ASEAN hay Trung Quốc.

- Với hệ thống bán lẻ đã được hình thành bài bản và các siêu thị  có chuỗi phân phối tương đối  ổn định rồi, việc thâm nhập vào các kênh bán hàng của Hàn Quốc là tương đối khó khăn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Nếu không có chiến lược tìm hiểu thị  trường, quảng bá sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm/dịch vụ  bản hàng, đảm bảo số  lượng/thời hạn giao hàng…thì các doanh nghiệp Việt Nam khó có thể  thâm nhập sâu hơn vào thị trường này.

Thách thức tại thị trường nội địa:

- Về hàng hóa: Thực hiện AKFTA, các doanh nghiệp nội địa của Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn khi phải cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu từ Hàn Quốc với giá cả  phải chăng và chất lượng/mẫu mã tốt  hơn, nay VKFTA tiếp tục  mở  cửa thêm thị  trường trong nước cho hàng nhập khẩu từ  Hàn Quốc sẽ lại càng tạo thêm áp lực cho các doanh nghiệp trong nước.

- Về dịch vụ và đầu tư: Nếu như trong AKFTA Việt Nam hầu như không có cam kết gì về dịch vụ và đầu tư cao hơn so với mức cam kết của Việt Nam trong WTO thì trong VKFTA Việt Nam có nhiều cam kết mở cửa hơn cho các nhà cung cấp dịch vụ và đầu tư từ  Hàn Quốc, đồng thời cũng cam kết mạnh hơn về  cơ chế  giải quyết tranh chấp Nhà nước  –  nhà đầu tư nước ngoài. Điều này một mặt  gây ra áp lực cạnh tranh cho các nhà cung cấp dịch vụ  và đầu tư trong nước vốn có năng lực cạnh tranh tương đối hạn chế. Mặt khác, việc tăng cường các dự  án đầu tư từ  Hàn Quốc sẽ  tạo ra áp lực cho các cơ quan quản lý của nhà nước trong việc quản lý đầu tư cũng như các rủi ro khi xảy ra các tranh chấp về đầu tư.

5. Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam và Liên minh kinh tế Á – Âu [EEUV-FTA]

Bao gồm các nước Liên bang Nga, Cộng hòa Belarus, Cộng hòa Kazakhstan, Cộng hòa Armenia và Cộng hòa Kyrgyzstan] được ký kết ngày 29/5/2015, và có hiệu lực từ ngày 05/10/2016. Đây cũng là FTA đầu tiên của EAEU do đó các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều lợi thế khi xuất khẩu sang khu vực thị trường này.

Cơ hội:

Việt Nam hiện đang cùng lúc đàm phán rất nhiều FTA với các đối tác lớn. Mỗi FTA lại đem đến cho doanh nghiệp những cơ hội khác nhau.

Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á Âu được kỳ vọng sẽ mang lại các lợi ích lớn về thương mại hàng hóa bởi ít nhất 04 lý do:

Thứ nhất, Liên minh trong đó đặc biệt là Nga, một thị trường rộng lớn hiện vẫn tương đối đóng với hàng hoá nước ngoài [thông qua hàng rào thuế quan cao]. Cụ thể, dù đã gia nhập WTO nhưng mức thuế nhập khẩu trung bình vào Nga vẫn còn là cao, đặc biệt là các sản phẩm nông nghiệp. Hiệp định có thể khai thông hàng rào thuế quan cao này.

Thứ hai, Việt Nam là đối tác FTA đầu tiên của EAEU đến thời điểm này. Trên thực tế, khu vực EAEU đã từng đàm phán FTA với một số nước nhưng không đạt được tiến triển và bị đình trệ hoặc hủy bỏ. Vì vậy, nếu ký được FTA với khu vực này, hàng hóa Việt Nam sẽ có lợi thế đặc biệt.

Thứ ba, cơ cấu sản phẩm giữa Việt Nam và các nước EAEU là tương đối bổ sung cho nhau chứ không cạnh tranh trực tiếp. Do đó những tác động bất lợi truyền thống của việc mở cửa thị trường Việt Nam cho đối tác qua FTA sẽ được giảm bớt nhiều.

Thứ tư, hiện tại mạng lưới người Việt sống, học tập và làm việc tại Nga tương đối đông đảo, các doanh nghiệp có thể tận dụng các kinh nghiệm và mối quan hệ từ mạng lưới này để tiếp cận thị trường này.

Đặc biệt đối với các cam kết về thuế quan, cơ hội mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam là vô cùng lớn:

- Việt Nam bắt đầu bước vào giai đoạn cắt giảm thuế nhập khẩu sâu trong một số FTA làm cho thuế suất thấp, chính vì thế các sản phẩm nhập khẩu vào Việt Nam nhiều hơn. Hơn nữa, các sản phẩm của Việt Nam không lo ngại sản phẩm cạnh tranh từ EAEU mà điều này còn làm đa dạng hoá sản phẩm cho người tiêu dùng.

- Đối với những mặt hàng là nguyên liệu đầu vào cho gia công, chế biến phục vụ xuất khẩu việc cắt giảm thuế sẽ giúp giảm chi phí, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh, từ đó thúc đẩy và mở rộng thị trường xuất khẩu.

- Thu hút đầu tư, đào tạo nhân lực, đổi mới công nghệ để tái cơ cấu doanh nghiệp và nền kinh tế.

Thách thức:

Theo cam kết tại Hiệp định này, Việt Nam sẽ phải mở cửa thị trường trong nước cho khoảng 90% các sản phẩm đến từ các nước EAEU, đặc biệt là các sản phẩm mà khu vực này có thế mạnh xuất khẩu như chăn nuôi, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải. Vì vậy, về lý thuyết, việc mở cửa sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh đáng kể cho các ngành sản xuất trong nước.

Mặc dù vậy, thách thức này không phải quá lớn bởi:

Thứ nhất, rất nhiều các sản phẩm trong số này Việt Nam không sản xuất được, phải nhập khẩu.

Thứ hai, với các sản phẩm cạnh tranh trực tiếp, trên thực tế Việt Nam đã mở cửa trong các FTA đã có và chủ động dự kiến mở cửa trong các FTA sắp tới.

Thứ ba, thách thức này đồng thời cũng là động lực thúc đẩy nỗ lực vươn lên, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh chưa hiệu quả.

So với nhiều thị trường khác, thị trường EAEU có một số đặc điểm riêng có thể tạo ra những rủi ro nhất định cho thương mại hàng hóa, đặc biệt là sự tồn tại của nhiều loại “rào cản trá hình” như:

- Yêu cầu về Hàng rào kỹ thuật trong thương mại và Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật không ổn định, thiếu minh bạch, do đó rất khó dự kiến trước.

- Quy trình, thủ tục nhập khẩu tương đối phức tạp và không rõ ràng, không nhất quán ngay trong bản thân nội khối 5 nước EAEU.

- Các rào cản khác: Giao dịch với đối tác EAEU sử dụng chủ yếu là ngôn ngữ tiếng Nga [chứ không sử dụng tiếng Anh thông dụng]; thiếu thông tin về đối tác bạn hàng không sẵn có; cơ chế thanh toán không thuận tiện…

Hiệp định VN - EAEU FTA chưa xử lý được các loại rào cản này. Nếu không vượt qua được những rào cản này, các lợi ích của việc loại bỏ thuế quan, mở cửa thị trường mà Hiệp định mang lại sẽ bị vô hiệu hóa. Các doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý xử lý các rào cản để tiếp cận thị trường EAEU, tận dụng lợi ích thuế quan to lớn từ Hiệp định này mang lại. Đối với cam kết về thuế quan, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đứng trước những thách thức không nhỏ, như:

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp chưa cao, khu vực tư nhân đã phát triển, song quy mô vẫn còn nhỏ và gặp nhiều hạn chế về năng lực tài chính, công nghệ.

Các ngành sản xuất trong nước phải đối mặt với sức ép cạnh tranh về chất lượng và giá cả của hàng nhập khẩu.

6. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương [CPTPP]: 

CPTPP vừa được ký kết tại Chile vừa tạo ra cơ hội mới nhưng cũng nhiều thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam.Với sự tham gia của 11 quốc gia xuyên hai bờ Thái Bình Dương với mức độ và phạm vi cam kết sâu rộng dẫn đến môi trường và điều kiện kinh doanh toàn cầu nói chung và các quốc quốc gia trong khối CPTPP nói riêng có nhiều thay đổi. Điều này vừa tạo ra cơ hội mới nhưng cũng nhiều thách thức cho các doanh nghiệp trong nước. 

Cơ hội:

CPTPP được coi là một hiệp định thương mại tự do tiêu chuẩn cao, không chỉ đề cập tới các lĩnh vực truyền thống như cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa, mở cửa thị trường dịch vụ, sở hữu trí tuệ, hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại... mà còn xử lý những vấn đề mới, phi truyền thống như lao động, môi trường, mua sắm của Chính phủ, doanh nghiệp nhà nước… 

Ngoài ra, hiệp định này đặt ra các yêu cầu và tiêu chuẩn cao về minh bạch hóa cũng như đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp có tính ràng buộc và chặt chẽ. Riêng về mở cửa thị trường, các nước tham gia hiệp định đồng ý xóa bỏ cho nhau gần như toàn bộ thuế nhập khâu theo lộ trình, tự do hóa dịch vụ và đầu tư trên cơ sở tuân thủ pháp luật của nước sở tại, bảo đảm sự quản lý của nhà nước. Từ đó tạo ra cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp và lợi ích người tiêu dùng của các nước thành viên. 

Mặt khác, dù Hoa Kỳ không tham gia có ảnh hưởng lớn đến các nước thành viên nhưng đây vẫn được đánh giá là hiệp định chất lượng cao và có nhiều lợi thế cho Việt Nam. 

Việc tham gia CPTPP sẽ giúp Việt Nam tăng GDP thông qua thu hút đầu tư và thương mại với các quốc gia thành viên CPTPP; tăng tốc phát triển xuất khẩu, nhất là với các mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh như nông sản, dệt may, thực phẩm, đồ uống… sang các nước trong khối; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cũng như lao động phổ thông thông qua trao đổi và xuất khẩu lao động… Với việc tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị thông qua hợp tác, liên kết với các doanh nghiệp trong khôi CPTPP, các thương hiệu Việt Nam cũng có cơ hội nâng tầm và vươn xa. 

CPTPP sẽ giúp Việt Nam đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu cũng như thay đổi cơ cấu thị trường xuất khẩu theo hướng cân bằng hơn. Chắc chắn CPTPP sẽ đem lại nhiều triển vọng khi dòng thuế suất bằng 0%, giúp ngành dệt may Việt Nam mở rộng thị phần tại một số nước đang có thuế suất cao như Canada, Newzeland, Australia… 

Cũng như dệt may, CPTPP là cơ hội để các doanh nghiệp xuất khẩu da giày tăng tỉ trọng, tăng cơ hội xuất khẩu sang các nước Chile, Australia, New Zealand, Mexico, Canada…Riêng Nhật Bản, một trong những thị trường chủ lực của ngành xuất khẩu da giày, túi xách Việt Nam với mức tăng trưởng trung bình 20-35%/năm, nếu doanh nghiệp biết tận dụng chặt chẽ các điều khoản từ CPTPP, mức tăng trưởng này sẽ còn cao hơn hiện tại. Hay Canada, áp thuế nhập khẩu 0% cho cả giày da và túi xách ngay lập tức mà không cần lộ trình cũng là cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào thị trường này. 

Doanh nghiệp chủ động liên kết 

Theo quy định của CPTPP, mức thuế suất xuất nhập khẩu bình quân áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường CPTPP sẽ giảm từ 1,7% xuống 0,2%. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là các doanh nghiệp nước ngoài sẽ nhanh chân hơn doanh nghiệp trong nước trong việc hưởng lợi từ các ưu đãi thuế quan từ CPTPP, khi họ có đủ tiềm lực để giải quyết các vấn đề mà doanh nghiệp Việt Nam đang gặp phải. 

Ở góc độ ngành gỗ, ông Nguyễn Tôn Quyền, Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, CPTPP sẽ mang tới cơ hội nhiều hơn thách thức cho ngành gỗ. Tuy nhiên, nhà nước cần có những cơ chế chính sách để cho khối doanh nghiệp nội tận dụng tốt thời cơ này. Hiện doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm hơn 42% kim ngạch xuất khẩu của ngành gỗ. Tuy nhiên, không thể cấm doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. 

Để phát huy tối đa lợi thế thì chính sách thu hút doanh nghiệp nước ngoài cần thay đổi, quản lý ra sao để các doanh nghiệp ngoại đóng góp nhiều hơn cho mục tiêu phát triển bền vững của ngành, có trách nhiệm hơn đối với ngành, như xây dựng vùng nguyên liệu, đầu tư công nghệ cao…chứ không chỉ đơn thuần là mua nguyên liệu từ một nước, sau đó đưa vào Việt Nam để gia công rồi xuất đi để hưởng ưu đãi thuế quan. 

Còn theo chuyên gia kinh tế Trần Du Lịch, phải thừa nhận rằng doanh nghiệp nước ngoài có những thuận lợi hơn doanh nghiệp trong nước về trình độ quản trị, chuỗi phân phối toàn cầu, tài chính tốt… Tuy nhiên, cũng nên nhìn thẳng vào sự thật là tiềm lực của các doanh nghiệp trong nước còn rất yếu, liên kết với nhau rất kém.

Do vậy, để tận dụng cơ hội từ CPTPP, khối doanh nghiệp trong nước phải xây dựng chiến lược dài hạn, liên kết mới có thể giúp nhau tham gia vào chuỗi giá trị, trong đó doanh nghiệp lớn dẫn dắt các doanh nghiệp nhỏ vào chuỗi giá trị của mình. Nếu không sẽ mất cơ hội, trước khi các doanh nghiệp nước ngoài vào hưởng lợi tại Việt Nam. 

Theo Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền – Thành viên nhóm Tư vấn chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ Thành phố Hồ Chí Minh, để tận dụng được cơ hội CPTPP đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng cao năng lực thâm nhập hàng hóa, phát triển kinh doanh ra bên ngoài bằng việc cải tiến công nghệ, quản lý chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế với giá cả cạnh tranh, tích hợp vào chuỗi cung ứng toàn cầu; đồng thời phải nâng cao năng lực phòng vệ trước sự thâm nhập hàng hóa, sự cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài thông qua đẩy mạnh liên kết sản xuất, xây dựng mạng lưới phân phối nội địa vững chắc. 

Theo đó, doanh nghiệp cần chủ động nắm bắt các cơ hội và kiểm soát thách thức từ CPTPP, đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng cao năng lực thâm nhập và phòng vệ. Để thực hiện được định hướng đó, cần đến sự nỗ lực của bản thân mỗi doanh nghiệp, sự liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp nội địa thông qua vai trò của các hiệp hội ngành nghề, cũng như những nỗ lực tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi từ chính sách nhà nước, tăng cường thông tin chính sách giúp doanh nghiệp giảm thiểu các rủi ro từ chính sách pháp luật. 

Bên cạnh đó, các biện pháp bảo vệ doanh nghiệp nội địa cần trọng tâm vào việc tạo lập các “hàng rào kỹ thuật , kiểm soát chặt chẽ hoạt động của doanh nghiệp nước ngoài, không để doanh nghiệp nước ngoài có lợi thế tiếp cận nguồn lực kinh doanh nhiều hơn doanh nghiệp nội địa như trong thời gian qua…

[Nội dung đầy đủ và cụ thể các Hiệp định thương mại tự do [FTA] đề nghị quý doanh nghiệp tham khảo, truy cập thêm trên Internet và tại trang //www.trungtamwto.vn/ của Trung tâm WTO-VCCI,…].

[Khánh Trình-TT]

Video liên quan

Chủ Đề