Tài nguyên có khả năng tái sinh là gì

.

Cập nhật lúc: 00:23, 28/01/2020 [GMT+7]

Tài nguyên thiên nhiên là chỉ các thành phần cấu tạo nên thiên nhiên bị con người dùng những hình thức nhất định để khai thác và ứng dụng cho cuộc sống, là những nguyên liệu cần thiết cho xã hội. Tài nguyên thiên nhiên thường gặp có: đất đai, nước, không khí, rừng, đồng cỏ, đầm lầy, biển, động thực vật hoang dã, vi sinh vật, hầm mỏ v.v...

Khoáng sản, rừng... đều là những tài nguyên hữu hạn

Trong các tài nguyên thiên nhiên, ngoài một số ít loài là nguyên sinh ra, tuyệt đại đa số là tài nguyên thứ sinh. Những tài nguyên nguyên sinh có ánh nắng Mặt Trời, không khí, gió, thác nước, khí hậu v.v... Chúng là nguồn vô hạn. Những tài nguyên thứ sinh có: đất đai, khoáng sản, rừng v.v... Chúng đều là tài nguyên hữu hạn.

Tài nguyên thiên nhiên thứ sinh được hình thành trong những giai đoạn đặc biệt của quá trình biến hóa tự nhiên của Trái Đất, vì vậy chất lượng và số lượng của chúng bị hạn chế. Một khi một loài sinh vật nào đó bị tiêu diệt thì sẽ khó mà tái sinh lại được. Không gian phân bố của chúng cũng không đồng đều. Do đó nói chúng là hữu hạn.

Ví dụ những tài nguyên thiên không thể tái sinh như đất đai, than bùn, than đá, dầu mỏ, khí đốt thiên nhiên v.v... Trong giai đoạn hiện nay đó là những tài nguyên không dễ gì tái sinh được. Nhưng nhân loại trước đây do trình độ sản xuất thấp nên chưa nhận thức được vấn đề này, vì vậy người ta cho rằng: những tài nguyên này khai thác mãi không cạn, dùng không hết.

Gần 300 năm nay cùng với sự phát triển vũ bão của sức sản xuất, những tài nguyên thiên nhiên ngày càng bị khai thác và lạm dụng, lãng phí tùy ý, không bị hạn chế, nên đã xuất hiện nguy cơ về thiếu tài nguyên.

Theo số liệu điều tra thì những loại tài nguyên chủ yếu trữ lượng không nhiều, trong vòng mấy trăm năm nữa sẽ bị khai thác hết. Ví dụ tuổi thọ của mỏ sắt không đầy 200 năm, trữ lượng về than đá chỉ khoảng 200 năm, trữ lượng dầu mỏ không đầy 30 năm. Những tài nguyên thiên nhiên có thể tái sinh được như đất đai, động vật, thực vật, vi sinh vật, rừng, thảo nguyên, sinh vật thủy sinh, v.v... do loài người chặt phá và săn bắt không hạn chế nên nhiều chủng loài bị tiêu diệt, khiến cho chúng không thể tái sinh được nữa.

Bi thảm hơn là những tài nguyên vốn được xem là vô hạn như không khí và nước, do con người gây ô nhiễm nên ngày nay cũng đã xuất hiện nguy cơ bị thiếu. Cho nên từ góc độ vĩ mô mà xét, các loại tài nguyên thiên nhiên hầu như đều rơi vào tình trạng bi quan “bị khai thác cạn, dùng kiệt”.

[Theo khoahoc.tv]

Hãy thực hiện các yêu cầu sau:

- Nêu tên các dạng tài nguyên không có khả năng tái sinh ở nước ta

- Theo em, tài nguyên rừng là dạng tài nguyên không tái sinh hay tái sinh? Vì sao?

Hãy cho biết nhóm tài nguyên nào sau đây là cùng một dạng[ tài nguyên tái sinh, không tái sinh hoặc năng lượng vĩnh cửu]?

A. Rừng, tài nguyên đất, tài nguyên nước

B. Dầu mỏ, khí đốt và tài nguyên sinh vật

C. Bức xạ mặt trời, rừng, nước

D. Đất, tài nguyên sinh vật, khí đốt

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. NGUỒN TÀI NGUYÊN KHÔNG TÁI SINH VÀ TÁI SINH Tài nguyên không tái sinh tự nhiên được là khoáng sản và tài nguyên tái sinh được la` đất, rừng, biển và các tài nguyên nông nghiệp 1.Tài nguyên khoáng sản và tình hình sử dụng Khoáng sản là nguyên liệu tự nhiên, có nguồn gốc hữu cơ hoặc vô cơ, phần lớn nằm trong đất. Sự hình thành khoáng sản có liên quan mật thiết với các quá trình địa chất trong một thời gian dài. a. Khoáng sản nhiên liệu Than đá có nguồn gốc từ xác cây hoá đá. Ba nước có trữ lượng lớn trên 1000 tỉ tấn là Liên Xô [cũ], Mĩ và Trung Quốc. Ở nước ta than đá là một khoảng sản quan trọng.
  2. Dầu mỏ và khí cháy cũng có nguồn gốc từ thực vật hoặc các chất hữu cơ phân hủy dở dang ở trong đất. Khu vực có trữ lượng lớn nhất là Trung Cận Đông, châu Phi và Liên Xô [cũ]. Cho tới nay, con người đã khai thác trên 50 tỉ tấn dầu mỏ và hàng chục ngàn tỉ mét khối khí cháy. Ngoài ra, trong sinh quyển còn có năng lượng ánh sáng mặt trời, gió, sóng biển, thuỷ triều. Con người đã nghiên cứu sử dụng được một phần các loại năng lượng này để có thể thay thế dần các nhiên liệu trong đất đang cạn kiệt và cũng hạn chế được tình trạng ô nhiễm môi trường. b. Khoáng sản nguyên liệu Đồng vàng là 2 kim loại được sử dụng đầu tiên vào thế kỷ V và IV trước công nguyên. Nhiều nước ở châu Á, châu Phi và châu Mĩ giàu khoáng sản đã trở thành thuộc địa, bị các nước tư bản phát triển khai thác và làm bần cùng. Việc khai thác nhiều khoáng sản như vàng, đồng, chì, nhôm... đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới môi trường, tác động rất lớn tới cuộc sống và sản xuất của con người. Việc đa`o đãi vàng trong hơn chục năm gần đây ở nhiều vùng trên đất nước ta như Bắc Thái, Tây Nguyên... đã phá hoại nhiều hoa màu, làng mạc, sông núi.
  3. Việc khai thác tận lực khoáng sản đang đặt ra nguy cơ tài nguyên cạn kiệt và ô nhiễm môi trường ngày càng tăng. 2. Tài nguyên tái sinh và tình hình sử dụng a. Rừng và lâm nghiệp Khi con người chưa hình thành, rừng bao phủ hầu khắp lục địa. Con người với dân số ngày càng tăng, hoạt động sống càng phong phú thì rừng ngày càng bị thu hẹp [ phá rừng lấy đất trồng trọt, chặt cây làm thuyền, làm nhà, làm nguyên liệu công nghiệp...]. Hiện nay, mỗi năm cây xanh chỉ còn sản sinh ra được 100 tỉ tấn chất hữu cơ. Ngoài việc cung cấp gỗ, rừng còn có tác dụng rất lớn trong việc điều hoà lượng nước trên mặt đất: làm tăng độ ẩm không khí, làm giảm lượng nước chảy, hạn chế lũ lụt, hạn chế xói mòn. Loại rừng hỗn giao gồm nhiều loại cây, thuộc nhiều lứa tuổi, tuy sản lượng thấp nhưng lại có ý nghĩa sinh thái lớn hơn rừng độc canh. Việc quản lý rừng bao gồm cả động vật, có ý nghĩa sinh thái to lớn đối với sinh giới nói chung và con người nói riêng. b. Đất và nông nghiệp
  4. Đất là nơi sản xuất ra lương thực, thực phẩm cho con người và gia súc. Đất còn là nơi để xây nhà, xây dựng các khu công nghiệp, làm đường xá... Đất nông nghiệp đang bị thu hẹp vì mật độ dân số tăng nhanh, do bị lấy để xây dựng; phát triển công nghiệp giao thông vận tải. Một phần đất bị thoái hoá do không biết chăm bón tốt nên bị xa mạc hoá. Đất nông nghiệp của Việt Nam bình quân đầu người khoảng 0,1ha. Phần lớn đất nông nghiệp của ta hiện nay được trồng lúa [64%] khoảng 20% trồng màu, 8% trồng cây lâu năm, 4% trồng cỏ, 3% là kênh mương, ao hồ. Nhiều vùng đất ở trung du đang bị xói mòn, thoái hoá [đất feralit]; 46 vạn ha đất cát và nhiều vùng đất phèn chưa có điều kiện cải tạo tốt. c. Tài nguyên thuỷ sản Tài nguyên vùng cửa sông, ven biển rất đa dạng và phong phú, gồm nhiều sinh vật ở nước và trên cạn. Môi trường cửa sông có nhiều loài động vật, thực vật chịu mặn và ưa lợ có giá trị kinh tế cao. Sản lượng hải sản ở vùng cửa sông của Mỹ và Mêhicô cao gấp 20 lần vùng biển khơi. Thành phần cơ bản của năng suất vùng ven biển là tảo hiển vi, chúng vừa là nguồn thức ăn, vừa là nguồn cung cấp ôxi to lớn cho các sinh vật trong nước. tảo nâu [rong
  5. mơ], tảo đỏ [rau câu]...là nguồn thức ăn, nguồn dược liệu [chế biến iốt, brôm, thạch,...] và nguồn phân bón có giá trị. Nhiều động vật đáy ở ven biển có giá trị kinh tế cao như trai, sò, tôm, cua, sao biển, hải sâm. Cá là nguồn tài nguyên phong phú ở vùng ven bờ và thềm lục địa. Chúng thường ăn nổi va` đi từng đa`n tuỳ thời tiết và theo mùa. Rùa biển, rắn biển, chim biển, thú biển đều là nguồn lợi ven biển. Chim biển có trên 200 loài, rùa biển [vích, dồi mồi, bà tam...] vừa là thực phẩm có giá trị, vừa là mặt hàng mỹ nghệ quí. Tài nguyên sinh vật biển vô cùng to lớn va` được khai thác hàng năm tới 70 triệu tấn. Nhiều loại bị đánh bắt quá mức như cá voi, cá heo, cá thu, cá ngừ, cá chim, tôm hùm ... đã trở nên hiếm. Tài nguyên nước ngọt ở Việt nam đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống hàng ngày của nhân dân. Hiện nay có tới 500 loài cá nước ngọt, trong đó có trên 50 loài có giá trị kinh tế lớn [chép, trắm, trôi, mè, quả...]. Phần lớn số loài cá sống trong các dòng chảy [sông, suối], chỉ có khoảng 50 loài cá phổ biến trong các ao, hồ. Tôm, cua, trai, ốc cũng là tài nguyên đáng kể của vùng nước ngọt. Tài nguyên ao, hồ đóng góp một phần rất quan trọng và thiết thực đối với đời sống của nhân dân. Phong trào VAC [Vườn-Ao-Chuồng] đã góp phần
  6. phát triển tài nguyên ao, hồ hiện nay đã xây dựng một chuỗi thức ăn ngắn, nhằm nhanh chóng nâng cao sản lượng cá, tôm...; sử dụng phân bón, thức ăn và cá con ương nhân tạo theo qui trình; xử lý nguồn chất thải để biến chất ô nhiễm thành tài nguyên. Hạn chế việc sử dụng thuốc trừ sâu bằng các chất độc hoá học và thay thế dần bằng thuốc trừ sâu thảo mộc nhằm phục hồi nguồn tài nguyên nước ngọt.

Page 2

YOMEDIA

Tài nguyên không tái sinh tự nhiên được là khoáng sản và tài nguyên tái sinh được la` đất, rừng, biển và các tài nguyên nông nghiệp 1.Tài nguyên khoáng sản và tình hình sử dụng Khoáng sản là nguyên liệu tự nhiên, có nguồn gốc hữu cơ hoặc vô cơ, phần lớn nằm trong đất. Sự hình thành khoáng sản có liên quan mật thiết với các quá trình địa chất trong một thời gian dài. a. Khoáng sản nhiên liệu Than đá có nguồn gốc từ xác cây hoá đá. Ba nước có trữ lượng lớn trên...

26-05-2011 830 41

Download

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.

Video liên quan

Chủ Đề