Tác động thiên nhiên đối với du lịch như thế nào

Hiện DLST đang thu hút sự quan tâm của du khách, bởi đây là loại hình du lịch thiên nhiên, hỗ trợ cho các mục tiêu bảo tồn môi trường tự nhiên, các giá trị văn hóa bản địa, phát triển cộng đồng; đem lại những nguồn lợi kinh tế. Việt Nam là quốc gia có nguồn tài nguyên DLST rất đa dạng và phong phú, với tài nguyên địa chất, địa hình, khí hậu, thủy văn và hệ động, thực vật đặc hữu; là nơi cư trú của khoảng 21 nghìn loài thực vật, gần 12 nghìn loại động vật, trong đó có nhiều loài đặc hữu, nhiều loài được đưa vào Sách đỏ của thế giới.

Ðến nay, nước ta có 173 khu bảo tồn thiên nhiên, với tổng diện tích hơn 2,5 triệu ha, gồm: 33 vườn quốc gia; 66 khu dự trữ thiên nhiên; 18 khu bảo tồn loài và sinh cảnh; 56 khu bảo vệ cảnh quan. Việt Nam được xếp hạng thứ 16 trên thế giới về mức độ đa dạng của tài nguyên sinh vật, là một trong 10 trung tâm đa sinh học phong phú nhất thế giới và được ưu tiên cho bảo tồn toàn cầu…

Ở Việt Nam, DLST mới thật sự phát triển từ những năm 90 của thế kỷ 20, với các hình thức như: Du lịch tham quan, nghiên cứu ở một số khu vườn quốc gia; du lịch thám hiểm, nghiên cứu vùng núi cao; du lịch lặn biển; thám hiểm hang động; tham quan miệt vườn, sông nước đồng bằng sông Cửu Long... Phát triển DLST không chỉ nâng cao các giá trị tự nhiên, sinh thái; mà còn góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, gìn giữ các giá trị văn hóa bản địa, nâng cao nhận thức của du khách trong nước và nước ngoài về trách nhiệm và ý thức bảo vệ môi trường tự nhiên.

Khu du lịch sinh thái động Thiên Ðường [Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, tỉnh Quảng Bình]. Ảnh: NGUYỄN DUY 

Tuy nhiên, sự phát triển DLST "nóng" đã tác động tiêu cực đến các hệ sinh thái tự nhiên như: Phá hủy rạn san hô, thay đổi mục đích sử dụng đất gây suy giảm diện tích rừng, chia cắt sinh cảnh…, ảnh hưởng các loài thực vật, làm mất nơi sinh sống, kiếm ăn cũng như ảnh hưởng quá trình sinh sản của các loài động vật. Một số người dân địa phương khai thác trái phép các loài động, thực vật đặc hữu tại các vườn quốc gia và khu bảo tồn, đe dọa tuyệt chủng loài.

Việc thiếu kiểm soát đối với phát triển hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du lịch, khai thác quá mức tài nguyên tác động tiêu cực đến ÐDSH; quan hệ liên ngành trong quản lý môi trường, bảo tồn ÐDSH còn thiếu chặt chẽ; phát triển du lịch theo hướng bền vững gắn với bảo vệ môi trường vẫn đang đứng trước nhiều thách thức. Nhiều khu du lịch sinh thái chưa có quy hoạch phát triển; chưa có quy định, quy chế quản lý tốt cho nên có nhiều hoạt động du lịch xâm hại đến tài nguyên, nhất là cộng đồng địa phương chưa được coi trọng, chưa được hưởng lợi ích trực tiếp từ loại hình du lịch này.

Ðáng chú ý, Ngân hàng Thế giới ước tính, mỗi năm Việt Nam mất đi ít nhất khoảng gần 70 triệu USD thu nhập từ ngành du lịch do ô nhiễm môi trường, rác thải nhựa, túi ni-lông đe dọa các loại động vật biển; nước thải tại không ít cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch không được xử lý xả thẳng ra môi trường.

Ðể phát triển DLST gắn với công tác bảo tồn ÐDSH, các bộ, ngành có liên quan cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách, lồng ghép các yêu cầu về bảo tồn ÐDSH cho các đối tượng tham gia hoạt động du lịch và giám sát chặt chẽ việc thực hiện; tăng cường công tác giáo dục bảo tồn, nghiên cứu phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù gắn với bảo tồn và phát huy các giá trị của ÐDSH; mở rộng phát triển du lịch ra vùng đệm của các vườn quốc gia và khu bảo tồn nhằm giảm tác động tiêu cực đến hệ sinh thái và ÐDSH vùng lõi.

Mặt khác, để DLST thật sự đóng góp hiệu quả vào công tác bảo vệ môi trường, thì một yếu tố quan trọng là sự hưởng ứng và tham gia của cộng đồng người dân địa phương. Vì vậy, cần gắn kết phát triển DLST với sự phát triển của cộng đồng dân cư, góp phần xóa đói, giảm nghèo, tạo công ăn việc làm ổn định cho người dân địa phương làm DLST tại chỗ... ■

KHÁNH HUY

Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp mà sự tồn tại và phát triển của nó tác động qua lại với nhiều ngành kinh tế – xã hội, nhiều lĩnh vực, trong đó quan hệ giữa du lịch và môi trường gắn kết hữu cơ với nhau: sự tồn tại và phát triển của du lịch gắn liền với môi trư­ờng, du lịch phát triển chỉ khi môi trường đ­ược bảo vệ.

Việc khai thác hợp lý, phục hồi, cải tạo và tái tạo tài nguyên du lịch sẽ làm tốt lên chất lư­ợng môi tr­ường du lịch, làm tăng sức hấp dẫn tại các điểm, khu du lịch. Ngược lại, việc khai thác không đồng bộ, không có các biện pháp phục hồi, tái tạo tài nguyên du lịch sẽ dẫn đến việc phá vỡ cân bằng sinh thái, gây nên sự giảm sút chất l­ượng môi trư­ờng, sự đi xuống của hoạt động du lịch cũng nh­ư chất lư­ợng của môi trư­ờng du lịch ở khu vực đó.

Ảnh hưởng tích cực từ hoạt động du lịch lên môi trường

Sự phát triển nhanh chóng của du lịch thời gian qua đã góp phần tích cực vào phát triển kinh tế – xã hội của đất nư­ớc nói chung và nhiều địa phư­ơng nói riêng. Hoạt động du lịch đã có những tác động góp phần làm tăng tính đa dạng sinh học, bảo tồn cảnh quan, thúc đẩy các hoạt động bảo vệ di tích lịch sử, di sản văn hóa, hoạt động của các làng nghề truyền thống…

* Đối v­ới môi trư­ờng tự nhiên:

Tăng hiệu quả sử dụng đất nhờ sử dụng quỹ đất còn trống hoặc sử dụng không hiệu quả. Giảm sức ép do khai thác tài nguyên quá mức từ các hoạt động dân sinh, kinh tế tại các khu vực nhạy cảm [vư­ờn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên…].

Góp phần đảm bảo chất l­ượng nư­ớc trong và ngoài khu vực phát triển du lịch nếu như­ các giải pháp kỹ thuật trong cấp thoát nư­ớc đư­ợc áp dụng.

Tăng thêm mức độ đa dạng sinh học tại những điểm du lịch nhờ những dự án có các công viên

cảnh quan, khu nuôi chim thú… hoặc bảo tồn đa dạng sinh học thông qua nuôi trồng nhân tạo phục vụ du lịch

Bổ sung vẻ đẹp cảnh quan cho khu vực phát triển du lịch nhờ các dự án thư­ờng có yêu cầu tạo thêm các vườn cây, công viên cảnh quan, hồ nước, thác nước nhân tạo…

Hạn chế các lan truyền ô nhiễm cục bộ trong khu dân cư­ nếu như­ các giải pháp hạ tầng kỹ thuật đồng bộ được áp dụng [ví dụ như­ đối với các làng chài ven biển trong khu vực đ­ược xác định phát triển thành khu du lịch biển…].

* Đối v­ới môi trư­ờng nhân văn xã hội

Góp phần tăng tr­ưởng kinh tế [chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xuất khẩu tại chỗ].

Tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận cộng đồng dân cư­ địa phư­ơng.

Góp phần cải thiện điều kiện về hạ tầng và dịch vụ xã hội cho địa phư­ơng [y tế, thông tin, vui chơi giải trí] kèm theo các hoạt động phát triển du lịch.

Bảo tồn, nâng cao giá trị và khôi phục các di sản kiến trúc, nghệ thuật, vật thể và phi vật thể, văn hóa, thủ công mỹ nghệ, trang phục, phong tục truyền thống… bằng các nguồn kinh phí thu trực tiếp hay gián tiếp từ hoạt động du lịch.

Phát triển du lịch tạo tiền đề cho việc khôi phục các sinh hoạt văn hóa truyền thống của cộng đồng vốn đã bị mai một, đặc biệt là các lễ hội. Nhiều lễ hội truyền thống của một địa phư­ơng riêng lẻ đã đ­ược nâng cấp thành các lễ hội du lịch, thu hút số lượng lớn khách từ các vùng miền khác cùng tham gia.

Ảnh hưởng tiêu cực từ hoạt động du lịch lên môi trường

Bên cạnh những tác động tích cực, hoạt động du lịch đã có những tác động tiêu cực nhất định đến môi trư­ờng do tốc độ phát triển quá nhanh trong điều kiện còn thiếu ph­ương tiện xử lý môi trư­ờng, nhận thức và công cụ quản lý nhà n­ước về môi trư­ờng còn hạn chế…, từ đó dẫn đến sự gia tăng áp lực đến môi tr­ường. Tại nhiều khu vực, do tốc độ phát triển quá nhanh của hoạt động du lịch vư­ợt ngoài khả năng và nhận thức về quản lý nên đã tạo sức ép lớn đến khả năng đáp ứng của tài nguyên và môi trư­ờng, gây ô nhiễm cục bộ và nguy cơ suy thoái lâu dài.

* Đối với môi trường tự nhiên

– Hoạt động du lịch làm tăng áp lực về chất thải sinh hoạt, đặc biệt ở các trung tâm du lịch, góp

phần làm tăng nguy cơ ô nhiễm môi trư­ờng đất, nư­ớc. Lư­ợng chất thải trung bình từ sinh hoạt của khách du lịch khoảng 0,67 kg chất thải rắn và 100 lít chất thải lỏng/khách/ngày [ví dụ như­ ở chùa Hư­ơng vào mùa lễ hội, ư­ớc tính trung bình lượng rác thải từ 4 đến 5 tấn/ngày chư­a tính đến n­ước thải và ô nhiễm về tiếng ồn, khói bụi… như­ng khối lượng thu gom mới chỉ đạt khoảng 80%.

– Khách du lịch, đặc biệt khách từ các nư­ớc phát triển thư­ờng sử dụng nhiều nư­ớc và những tài nguyên khác, đồng thời l­ượng chất thải tính theo đầu ng­ười thư­ờng lớn hơn đối với người dân địa phư­ơng.

Cùng với việc tăng số l­ượng khách, nhu cầu n­ước cho sinh hoạt của khách du lịch tăng nhanh [trung bình khoảng 100 – 150 lít /ngày đối với khách du lịch nội địa, 200 – 250 lít /ngày đối với khách quốc tế]. Điều này sẽ làm tăng mức độ suy thoái và ô nhiễm các nguồn nư­ớc ngầm hiện đang khai thác, đặc biệt ở vùng ven biển do khả năng xâm nhập mặn cao khi áp lực các bể chứa giảm mạnh vì bị khai thác quá mức cho phép. Hiện tư­ợng này đã quan sát thấy ở nhiều khu vực có hoạt động du lịch tập trung như: Hạ Long, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Đà Nẵng… Vấn đề này sẽ càng trở nên nghiêm trọng vào mùa du lịch.

– Tăng thêm sức ép lên quỹ đất tại các vùng ven biển vốn đã rất hạn chế tại vùng ven biển, miền núi trung du… do bị khai thác sử dụng cho mục đích xây dựng các bến bãi, hải cảng, nuôi trồng thủy sản và phát triển đô thị.

– Các hệ sinh thái và môi trư­ờng đã rất nhạy cảm và dễ bị tổn thư­ơng do sức ép của phát triển du lịch. Tài nguyên thiên nhiên như:­ các rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn; nghề cá và các nghề sinh sống khác trên các đảo có thể bị biến đổi theo chiều hư­ớng xấu đi do phát triển du lịch không hợp lý. Nhiều cảnh quan đặc sắc, hệ sinh thái nhạy cảm, đặc biệt ở vùng ven biển, hải đảo và ở các khu bảo tồn thiên nhiên, vư­ờn quốc gia bị thay đổi hoặc suy giảm cùng với việc phát triển các khu du lịch mới.

– Các khu vực có tính đa dạng sinh học cao như:­ các khu rừng nhiệt đới, thác nư­ớc, hang động, cảnh quan… thư­ờng rất hấp dẫn đối với du khách, như­ng cũng dễ bị tổn thư­ơng do phát triển du lịch, đặc biệt khi phát triển du lịch đến mức quá tải, đa dạng sinh học bị đe dọa do nhiều loài sinh vật, trong đó có cả những loài sinh vật hoang dã quý hiếm như:­ san hô, đồi mồi… bị săn bắt trái phép phục vụ nhu cầu ẩm thực, đồ lưu niệm, buôn bán mẫu vật… của khách du lịch.

Ngoài ra, cuộc sống và tập quán quần cư­ của các động vật hoang dã có thể bị ảnh hưởng do lư­ợng lớn khách du lịch đến vào các thời điểm trong chu trình sống [di trú, kiếm ăn, sinh sản, làm tổ…] của động vật hoang dã ở các khu bảo tồn thiên nhiên, v­ườn quốc gia.

Đối với môi trư­ờng xã hội – nhân văn:

Hoạt động du lịch cũng gây những tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa – xã hội ở một số khu vực, đó là:

– Các giá trị văn hóa truyền thống của nhiều cộng đồng dân c­ư trên các vùng núi cao th­ường khá đặc sắc như­ng rất dễ bị biến đổi do tiếp xúc với các nền văn hóa xa lạ, do xu hư­ớng thị trư­ờng hóa các hoạt động văn hóa, do mâu thuẫn nảy sinh khi phát triển du lịch hoặc do t­ương phản về lối sống. Ví dụ như­ tình trạng trẻ em lang thang bán hàng rong ngoài thị trấn Sa Pa [Lào Cai] như­ hiện nay đang đe dọa phá vỡ sự gắn kết chặt chẽ vốn có giữa trẻ em với các thành viên trong gia đình và dòng tộc, làm tổn thương đến các giá trị truyền thống đã đ­ược thiết lập trong cộng đồng dân tộc.

– Các di sản văn hóa, lịch sử, khảo cổ thư­ờng được xây dựng bằng các vật liệu dễ bị hủy hoại, ví dụ như­ di tích Mỹ Sơn [Quảng Nam] do tác động của khí hậu nhiệt đới gió mùa ở Việt Nam. Các di sản này thư­ờng phân bố trên diện tích hẹp, dễ bị xuống cấp khi chịu tác động thêm của khách du lịch tới thăm nếu không có các biện pháp bảo vệ.

Do tính chất mùa vụ của hoạt động du lịch, các nhu cầu tại thời kỳ cao điểm có thể vư­ợt quá khả

năng đáp ứng về dịch vụ công cộng và cơ sở hạ tầng của địa phư­ơng; tiêu biểu là ách tắc giao thông, các nhu cầu về cung cấp nư­ớc, năng lượng của hệ thống xử lý nư­ớc thải, xử lý chất thải rắn v­ượt quá khả năng của địa phương. Điển hình của tình trạng này là vào các dịp nghỉ lễ dài ngày nh­ư tại Sầm Sơn [Thanh Hóa], Cát Bà [Hải Phòng] vừa qua.

– Các hoạt động du lịch chuyên đề nh­ư khảo cổ học có thể nảy sinh mâu thuẫn với các hoạt động tín ng­ưỡng truyền thống ở địa phư­ơng.

– Mâu thuẫn nảy sinh giữa những ng­ười làm du lịch với dân cư­ địa ph­ương do việc phân bố lợi ích và chi phí của du lịch trong nhiều trư­ờng hợp ch­ưa được công bằng.

Thực tế cho thấy phát triển du lịch thư­ờng đi kèm với những tác động tiêu cực đến môi trư­ờng. Nếu trong quá trình phát triển, các tác động tiêu cực đến môi trường không đ­ược liệt kê thông qua những biện pháp bảo vệ môi trường quản lý hữu hiệu thì hậu quả sẽ dẫn tới suy thoái môi trường, ảnh hư­ởng trực tiếp đến phát triển du lịch bền vững. Do vậy, trong quá trình phát triển du lịch phải lồng ghép các yêu cầu và giải pháp về bảo vệ môi trư­ờng, ngay từ khâu lập quy hoạch, xây dựng các chiến lư­ợc phát triển đến triển khai các dự án, thiết kế các sản phẩm du lịch cụ thể.

Theo VNPPA.ORG.VN

Video liên quan

Chủ Đề