So sánh ngôn ngữ với một loại hình nghệ thuật

trọng nhất có khả năng đáp ứng một cách rộng rãi nhu cầu thẩm mỹ ngày càng lớn củathời đại.Sự ra đời và phát triển nghệ thuật điện ảnh gắn liền với những tiến bộ cảu khoahọc kỹ thuật và sự phát triển của nền công nghiệp. Không có loại hình nghệ thuật nào,kể cả sân khấu, có thể so sánh với nghệ thuật điện ảnh về tính tổng hợp.Tuy là nghệ thuật biển diễn nhưng giữa sân khấu và điện ảnh có sự khác biệt rõrệt. Nếu nói nghệ thuật sân khấu trước hết là nghệ thuật của diễn viên thì không thể nóinhư vậy đối với điện ảnh. Diễn xuất của diễn viên sân khấu là phương tiện chủ yếu vàduy nhất, trong khi đó ở điện ảnh, ngoài diễn xuát của diễn viên còn những phươngtiện tạo hình - biểu hiện khác hỗ trợ đắc lực cho việc thể hiện ý đồ tư tưởng của tácgiả. Ngoài ra, diễn xuất của diễn viên điện ảnh gần gũi hơn với cuộc sống dời thường,nó không mang tính quy phạm và ươc lệ như diễn xuấtcuar diên viên sân khấu. Đó làlý do cắt nghĩa vì sao nhiều diễn viên có hạng trên sân khấu khi được mời đóng phimlại tỏ ra lúng túng.Điện ảnh còn khác với sân khấu về không gian hoạt động. Không gian sân khấulà không gian ước lệ, bị giới hạn trong một phạm vi nào đó, còn không gian điện ảnhgiống như sự thực ngoài đời. Người ta có thể đưa lên nàm ảnh hầu như tất cả mọi vấnđề có quy mô, tầm cỡ khác nhau, được sảy ra trong quá khứ cũng như hiện tại.Để xây dựng một bộ phim, trước hết cần có kịch bản điện ảnh. Kịch bản điệnảnh có thể dụa trên cơ sở nội dung hay cốt truyện của tác phẩm văn chương, cũng cóthể là sự sáng tạo mới của nhà biên kịch. Bằng ngôn ngữ đặc trưng của nó. Nhũngngười làm phim thể hiện một cách sáng tạo ý đồ của nhà biên kịch, làm sống dậynhững hình tượng nghệ thuật được phác họa trong kịch bản. Tính chất đồng sáng tạo,vì vậy, được thể hiện rất rõ ràng trong phim.Ống kính của người quay phim là một trong những phương tiện cơ bản của nghệthuật điện ảnh. Nó có thể tạo ra những ấn tượng khác nhau khi khán giả được trực tiếpcảm nhận con người và cảnh vậy dưới nhiều góc độ, với những khoảnh khắc thời gianvà không gian luôn đổi thay, biến hóa. Sự sắp xếp, kết nối những cảnh, những đoạnphim lại với nhau một cách lôgic nhằm thể hiện chủ đề của tác phẩm lại là công việccảu người dựng phim. Ý nghĩa sâu xa và quan trọng nhất của nghệ thuật dựng phim làphát hiện trình bày có sức thuyết phục nhất những mối liên hệ biện chứng và hữu cơcác hiện tượng và quá trình mà trong thực tiễn đời sống không phải lúc nào cũng nổivà dễ thấy đối với tất cả mọi người. Sự kết hợp của ống kính điện ảnh với nghệ thuậtdựng phim tạo nên những khả năng ưu việt cho ngôn ngữ nghệ thuật nào cũng có thểđược. Ngoài ra sự thành công của một tác phẩm điện ảnh còn phải kể đến vai trò củacá phương tiện khác như ánh sáng, tiếng động, hóa trang, khói lửa, lời bình, lời dẫn….108 Điện ảnh là loại hình nghệ thuật bao gồm nhiều loại thể: phim truyện, phim tàiliệu, phim khoa hoc, phim hoạt hình, phim khoa học viễn tưởng….Ngày nay, với sụ phát triển mạnh mẽ như vũ bão của khoa học kỹ thuật, với sựbùng nổ của các phương tiện thông tin đại chúng – đặc biệt là vô tuyến truyền hình vàvi deo – điện ảnh vẫn ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của nó trong đời sốngxã hội.109 BÀI 8: NGHỆ THUẬT VĂN HỌC1. Khái niệmVăn chương là khái niệm dùng để chỉ một ngành nghệ thuật – nghệ thuật ngôn từ.Văn chương dùng ngôn từ làm chất liệu để xây dựng hình tượng, phản ánh và biểuhiện đời sống. Khái niệm văn chương và văn học thường bị dùng lẫn lộn.Văn học làkhoa học nghiên cứu về văn chương. Nó lấy các hiện tượng văn chương nghệ thuậtlàm đối tượng cho mình. Quan hệ giữa văn chương và văn học là quan hệ giữa đốitượng và chủ thể, giữa nghệ thuật và khoa học; văn chương [nghệ thuật] là đối tượngcủa văn học [khoa học].2. Lịch sử hình thành và phát triểnVăn học thực ra ra đời từ khi có chữ viết, nó là loại hình nghệ thuật vừa mangtính biểu hiện vừa mang tính tạo hình, người ta còn coi văn chương là nghệ thuật củamọi loại hình nghệ thuật khi tư duy của con người đã rất phát triển.Theo diễn trình phát triển của lịch sử loài người, văn học có một chỗ đứng quantrọng, từ thời cổ đại đã xuất hiện những tác phẩm văn chương mang giá trị như thầnthoại, những câu chuyện truyền thuyết phương đông và sang thời kỳ Phục hưng, vănhọc phát triển song song song cùng các loại hình nghệ thuật khác.Thời kỳ khai sáng, thế kỷ XVII, XVIII văn học đã phát triển mạnh và trung tâmlớn tập trung ở Pháp với những tên tuổi lừng danh, thế kỷ XX cùng chung xu hướngvới các trào lưu nghệ thuật, mỹ thuật khác, văn chương đã góp phần làm cho thế giớitinh thần của con người phong phú, nó còn có khả năng phản ánh hiện thực, dự báotương lai cho những phát triển tư duy ngôn ngữ của con người thời hiện đại.Ở Việt Nam dòng văn học hiện thực 30, 45 đã làm được cuộc cách mạng tưtưởng lớn, phản ánh hiện thực đả kích phê phán và văn chương ở mọi thời đại là tiếngnói gần gũi của người lao động.3. Đặc trưng ngôn ngữ, các thể loại văn học.Văn chương là loại hình nghệ thuật giữ vị trí đặc biệt trong hệ thống các loạihình nghệ thuật. Điều này được ghi nhận ở chỗ,người ta thường coi văn chương là loạihình nghệ thuật còn lại.So với các loại hình nghệ thuật khác văn chương có nhiều ưu thế rõ rệt . Một là,văn chương có khả năng phản ánh hiện thực một cách sâu rộng nhất nhạy bén nhất. Nócó khả năng miêu tả những biến động phức tạp của lịch sử xã hội cũng như khai thácmổ xẻ những diễn biến tâm lý muốn màu, muôn vẻ trong thế giới tâm hồn, tình cảmcủa con người, điều mà ít loại hình nghệ thuật nào có thể so sánh được. Hai là vănchương thường đi trước trong việc đề cập và giải quyết các nhiệm vụ bức xúc thời110 đại.Vì vậy, nó tác động mạnh mẽ tới sự phát triển và chiều hướng tư tưởng của cácloại hình nghệ thuật khác.Ba là, văn chương có thể cung cấp cho nghệ sĩ sáng tácthuộc các loại hình nghệ thuật khác nguồn đề tài phong phú và khơi dậy trong họ cảmhứng sáng tạo.Riêng với sân khấu và điện ảnh, nó cung cấp kịch bản văn chương màthiếu chúng, những người làm công tác sân khấu điện ảnh không thể dàn dựng các tácphẩm nghệ thuật của mình.Bốn là, vì lấy ngôn ngữ, văn chương làm phương tiện miêutả và phản ánh, nên sự phát triển của nghệ thuật văn chương có ảnh hưởng tích cực tớisự phát triển tư duy và ngôn ngữ.Năm là, tính quần chúng và tính phổ cập của vănchương sâu rộng nhất so với các loại hình nghệ thuật khác, xét cả trên phương diệncảm thụ cũng như trên phương diện sáng tác.Vì vậy, đối tượng phục vụ cũng như độingũ sáng tác của văn chương hết sức rộng lớn.Văn chương là loại hình nghệ thuật vừa mang tính tạo hình,vừa mang tính biểuhiện.Cả hai khả năng này là rất lớn và đó cũng là một trong những nguyên nhân cơ bảntạo nên sức sống mãnh liệt của nghệ thuật văn chương.Văn chương bao gồm nhiều thể loại. Dựa trên đặc điểm từ pháp và cấu trúcngôn ngữ, có người chia văn chương thành hai thể: văn vần và văn xuôi.Văn vần [còngọi là thơ ca] là thể loại văn vần, có kèm theo đó là nhịp điệu, tiết tấu “thi trung hữunhạc”. Văn xuôi là thể văn không có cần vần điệu, song vần đòi hỏi phải có hìnhảnh,có từ ngữ trong sáng, chuẩn xác , giàu cảm xúc.Ngoài ra, người ta còn chia vănchương thành ba loại lớn : tự sự,trữ tình, kịch bản.Nếu tự sự là thể loại chủ yếu mô tảsự kiện có gắn liền với cốt truyện thì trữ tình là thể loại chủ yếu bày tỏ cảm xúc của tácgiả trước hiện thực cuộc đời.Tất nhiên,sự phân loại như trên cũng chỉ mang ý nghĩatương đối.Văn học sử dụng ngôn từ [viết và nói] .Con người là phương tiện biểu đạttruyền tải nội dung của nghệ thuật văn họcCác loại hình nghệ thuật khác đều ít nhiều có tính trực tiếp tác động hình ảnhlên thị giác hoặc thính giác con người, riêng văn học lại là nghệ thuật gián tiếp, đi quakênh gợi ý, vỏ tư duy ngôn ngữ để người đọc người nghe hình dung lại, rồi tái hiệntrong đầu óc của mình điều mà ngôn từ trần thuật. Nghệ thuật văn học có nhiều thểloại: Tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch, phóng sự, ký sự…Câu hỏi:1. Nêu khái niệm nghệ thuật sân khấu, Điện ảnh, Múa…Trình bày mốiliên hệ giữa loại hình nghệ thuật Điêu khắc và nghệ thuật Múa2. Phân tích đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật văn học và nếu mối liên hệvới các loại hình nghệ thuật khácHướng dẫn thực hiện111

CHẤT LIỆU CỦA VĂN HỌC – ĐẶC TRƯNG CỦA NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT* Phân biệt nghệ thuật ngôn từ và ngôn từ nghệ thuật- Ngôn từ nghệ thuật vốn là kết quả của các biện pháp tu từ cùng cách tổ chức lời văn,nhằm góp phần bộc lộ giá trị tư tưởng – thẩm mỹ trong một tác phẩm cụ thể.- Nghệ thuật ngôn từ: Bàn về đặc trưng cơ bản của văn học với tư cách là một loại hìnhnghệ thuật lấy ngôn từ làm chất liệu, đối sánh với loại hình nghệ thuật có chất liệu khác.A. Chất liệu của văn học – ngôn từ nghệ thuậtII.Đặc trưng của ngôn từ nghệ thuật- Văn học là một trong các hình thái ý thức xã hội nhưng văn học cũng là một ngành nghệthuật. Đặc trưng của một loại hình nghệ thuật, xét đến cùng là ở mặt chất liệu của nó:+ Chất liệu của hội họa là màu sắc+ Chất liệu của âm nhạc là tiết tấu+ Chất liệu của vũ đạo là hình thể và động tác…+ Chất liệu của văn học là ngôn từ- Ngôn từ của văn học được lấy từ trực tiếp lời nói. Đó không phải là ngôn từ logic chỉtác động vào chủ yếu vào lý tính như trong triết học, chính trị… mà đó phải là ngôn từgiàu tình cảm, tác động chủ yếu vào tâm hồn con người.Xuất phát từ chất liệu, trong thế đối sánh với các loại hình nghệ thuật khác, văn học vớitư cách là nghệ thuật ngôn từ sẽ mang những đặc điểm sau:1.Tính hình tượng - gián tiếp:* Các loại hình nghệ thuật khác:Chất liệu của các loại hình nghệ thuật như hội họa, điêukhắc, vũ đạo… dù là màu sắc, vật thể, hình thể, động tác… đều là vật chất. Chúng đềucó tính hình tượng trực tiếp nghĩa là chúng ta có thể trực tiếp nghe nhìn hình tượngtừ các loại hình nghệ thuật này.Các chất liệu này cũng đem tới cho các loại hình nghệthuật trên tính trực quan.VD: ta có thể ngắm bức họa “Mùa thu vàng”, nghe bản giaohưởng “Bốn mùa”, xem múa ba lê…* Văn học:- Ngôn ngữ không phải là vật chất hay vật thể mà chỉ là kí hiệu của chúng mà thôi,nên hình tượng mà thơ văn xây dựng không thể nghe nhìn một cách trực quan. Songngôn ngữ sẽ tác động vào vỏ đại não nên cuối cùng vẫn nghe thấy được một cách giántiếp qua óc tưởng tượng.Vì vậy, văn học đòi hỏi độc giả cần phát huy trí tưởng tượng,khả năng liên tưởng.Vốn sống càng sâu sắc, càng đi nhiều, biết nhiều… sự liên tưởngcàng phong phú.Ví dụ 1: Xem bức tranh “Mùa thu vàng”, người xem có thể nhìn “trực quan” bức tranhmùa thu. Nhưng khi đọc “Câu cá mùa thu” [Nguyễn Khuyến], để cảm nhận bức tranhmùa thu, độc giả cần mở rộng tưởng tượng:Ao thu lạnh lẽo nước trong veoMột chiếc thuyền câu bé tẻo teoSóng biếc theo làn hơi gợn týLá vàng trước gió khẽ đưa vèoVí dụ 2: Âm thanh tiếng đàn của Thúy Kiều khi gảy đàn cho Kim Trọng nghe:So lần dây Vũ dây VănBốn dây to nhỏ theo vần Cung, Thương.Khúc đâu Hán Sở chiến trườngNghe ra, tiếng sắt tiếng vàng chen nhau.Khúc đâu Tư Mã Phượng cầuNghe ra như oán như sầu phải chăng !Kê Khang, nầy khúc Quảng lăngMột rằng lưu thủy, hai rằng hành vân.Quá quan, nầy khúc Chiêu QuânNửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia.Trong như tiếng hạc bay quaĐục như tiếng suối mới sa nửa vờiTiêng khoan như gió thoảng ngoàiTiếng mau sầm sập như trời đổ mưaTa có thể nghe thấy ngữ âm những câu thơ ấy, người đọc có thể cảm nhận sự phong phú,đa dạng của cung bậc tiếng đàn cũng như tài nghệ của người đánh đàn. Những tín hiệungôn ngữ tác động vào vỏ đại não nên cuối cùng ta vẫn nghe thấy một cách gián tiếp quaóc tưởng tượng của chúng ta.- Nếu như các ngành nghệ thuật khác, hình tượng của nó chỉ có thể cảm thụ bằng 2giác quan là thị giác và thính giác, thì hình tượng phi vật thể của văn chương lại cókhả năng tác động tới tất cả các giác gian của người đọc, không chỉ ở cơ quan thịgiác mà cả thính giác, vị giác và khứu giác, thậm chí cả trực giác. Ðộc giả dường nhưphải vận dụng mọi cơ quan cảm giác để tiếp nhận hình tượng văn chương.VD: Đọc những câu thơ sau, độc giả không chỉ tưởng tượng ra hình ảnh một đất nước Cuba trù phú, tươi đẹp mà còn phải vận dụng tất cả mọi giác quan cụ thể để tiếp nhận hìnhtượng.Em ạ! Cuba ngọt lịm đườngMía xanh đồng bãi, biếc đồi nươngCam ngon, xoài ngọtvàng nông trạiOng lạc đường hoa rộn bốn phương2. Tư duy - trực tiếp:- Các loại hình nghệ thuật khác: Khó có thể bộc lộ trực tiếp cảm xúc của người viếtmà cần phải thông qua tưởng tượng và chiêm nghiệm của công chúng để hiểu đượcsuy tư và cảm nghĩ của tác giả.Ví dụ: Bức tranh nàng Mona Lisa là một bức chân dung thế kỷ 16 được vẽ bằng sơndầu trên một tấm gỗ dương tại Florence bởi Leonardo da Vinci trong thời kì PhụcHưng Italia.Bức tranh nàng Mona Lisa của Leonardo da Vinci đã tạo cảm hứng cho rấtnhiều nhà phân tích, từ nghệ thuật tới khoa học, từ phân tích quang học tới phân tích tâmlý học, hình thành hình ảnh "nụ cười Mona Lisa" trong văn học, đại diện cho một cái gìđó rất bí ẩn nhưng thật sâu xa, không mặt nàng không biết nàng đang cười hay đangkhóc, đấy là một bí mật không ai biết.- Văn học: Ngôn ngữ được coi là “cái vỏ vật chất trực tiếp của tư duy”, là kí hiệu củatư duy. Lấy ngôn ngữ làm chất liệu, văn học có thể bộc lộ trực tiếp tư tưởng tình cảmcủa nhà văn, của nhân vật. Văn học cổ kim đông tây cho ta biết vô vàn suy nghĩ của conngười trước cuộc đời. Dù có thể không bộc lộ trực tiếp nhưng ít nhất người đọc vẫn cóthể biết được trạng thái cảm xúc của nhân vật, trạng thái cảm xúc của người viết.Ví dụ: Trong bài “Mùa xuân nho nhỏ”, Thanh Hải đã trực tiếp gửi tâm nguyện giản dị màchân thành đến cuộc đời:Một mùa xuân nho nhỏLặng lẽ dâng cho đờiDù là tuổi hai mươiDù là khi tóc bạcVí dụ 2: Người đọc có thể cảm nhận thái độ ngập ngừng, đắn đo của lão Hạc khi phải đưara một quyết định khó khăn là bán con chó Vàng qua cách mà lão hút thuốc:Lão Hạc thổi cái mồi rơm, châm đóm.Tôi đã thông điếu và bỏ thuốc rồi.Tôi mời lão hút trước.Nhưng lão không nghe...- Ông giáo hút trước đi.Lão đưa đóm cho tôi...- Tôi xin cụ...Và tôi cầm lấy đóm, vo viên một điếu. Tôi rít một hơi xong, thông điếurồi mới đặt vào lòng lão. Lão bỏ thuốc, nhưng chưa hút vội. Lão cầm lấyđóm, gạt tàn, và bảo :- Có lẽ tôi bán con chó đấy, ông giáo ạ !Lão đặt xe điếu, hút. Tôi vừa thở khói, vừa gà gà đôi mắt của người say,nhìn lão, nhì để làm ra vẻ chú ý đến câu nói của lão đó thôi.3. Tính vô cực hai chiều về không gian, thời gian:- Các loại hình nghệ thuật khác:Vì chất liệu của chúng là các vật thể: tiết tấu, động tác, màu sắc…nên chúng ít nhiềubị hữu hạn trong không gian. Mặt khác dẫu có gom tất cả tiết tấu, động tác, màu sắc…cũng khó có thể tượng trưng cho mọi sự vật và hiện tượng trong nhân sinh và vũ trụ này.* Văn học:- Tính vô cực về không gian:+ Lấy chất liệu là ngôn ngữ - phi vật thể, văn học có thể mô tả, hình dung về bất cứ sựvật nào trong thế giới vĩ mô và vi mô. Không gian trong văn chương có thể rất hẹp cũngcó thể rất rộng: một sự vật, một con người, một căn phòng v.v... và có thể là một côngtrường, một chiến trường. Nói chung, không gian trong văn chương không bị một hạn chếnào. có họa sĩ nào vẽ được không gian của “Tây du kí”, ‘Tam quốc chí”, “Chiến tranh vàhòa bình”… Không gian trong văn chương được di chuyển rất dễ dàng. Ðang ở khônggian này người đọc có thể được đưa sang một không gian khác một cách dễ dàng và bấtkỳ ở đâu. Sự thay đổi không gian trong văn chương cũng không bị hạn chế.Khả năng baoquát của không gian trong văn chương là vô cùng. Không một bức tranh nào so sánh nổikhả năng này của văn chương.Ví dụ 1: L.Tônxtôi đã dựng lại khung cảnh của chiến trường Burađinô một cách hoànhtráng, sinh động qua tác phẩm “Chiến tranh và hòa bình”. Dẫu có vẽ liên hoàn cũng khócó thể tái hiện lại được một cách tỉ mỉ như vậy.Ví dụ 2: Không chỉ tái hiện một không gian đồ sộ, quy mô, văn học cũng đi sâu vào thếgiới vi mô, khơi dậy những rung động nhỏ bé mà tinh tế vô cùng. Sự giao tranh của mùahạ và mùa thu được thể hiện rõ nét qua những câu thơ sau:Hơn một loài hoa đã rụng cànhTrong vườn sắc đỏ rũa màu xanhNhững luồng run rẩy rung rinh láĐôi nhánh khô gầy xương mong manhNgười đọc có thể cảm nhận mùa sang trong phạm vi một khu vườn, trong quy mô củatừng chiếc lá khi sắc đỏ đang dần lấn lướt sắc xanh.+ Văn chương thiên về miêu tả quá trình đời sống, sự vận động, tái hiện các hành động.Ngay miêu tả một sự vật cũng vậy, nhà văn không dừng lại ở chỗ liệt kê, thống kê tỉ mỉmột cách tĩnh tại mà khai thác sự vận động trong chiều sâu của sự vậtVD: Nguyễn Du trong bức tranh sau đây đã nhìn thấy sự vận động của tạo vật mà conmắt thường không thể thấy được.Xập xè én liệng tầng khôngCỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày.+ Có một không gian nghệ thuật của văn chương mà các nghệ thuật khác khó lòngvới tới, đó là không gian tâm tưởng, thế giới nội tâm, suy tư và mơ ước của conngười].VD: Chẳng hạn tâm tư của của cô gái đang yêu, bị xò xét trong nỗi nhớ ở bài ca dao sau:“Khăn thương nhớ ai…một bề”.+ Không gian và thời gian của văn chương là không gian và thời gian nghệ thuật - nóvừa là sự phản ánh không gian và thời gian hiện thực nhưng đôi khi chỉ mang ýnghĩa ước lệ, tượng trưng.Ví dụ:- Tính vô cực về thời gian:+ Nghệ thuật thời gian trong văn chương là có tính đặc thù. Tính đặc thù đó là ởchỗ, trong văn chương, thời gian được thể hiện uyển chuyển, biến hóa khôn lườngnhà văn có thể ép mỏng lại hoặc kéo căng thời gian ra tùy theo yêu cầu nghệ thuậtnhất định. Thời gian trong văn chương không nhất thiết được thể hiện đúng như thật,trực tiếp như thời gian trên sâu khấu là trùng khít với thời gian được miêu tả.Trong vănchương thời gian nhiều khi chỉ là khoảng khắc nhưng được nhà văn đặc tả tỉ mỉ và có thểcó cả lời bình phẩm kéo dài hàng trang sách.Như vậy ở đây thời gian cần để miêu tảnhiều gấp mấy lần thời gian được miêu tả.Thường khi, văn chương dồn nén thời gian từmột khoảng thời gian tự nhiên dài ngoài thực tế lại một vài dòng ngắn gọn.Ngày qua, ngày lại qua ngàyLá xanh nhuộm đã thành cây lá vàngCác tác phẩm văn chương có thể mô tả đối tượng chiếm một khoảng khắc thời gian, cũngcó thể mô tả đối tượng diễn ra hàng thế kỷ. Bài thơ “Vịnh pháo” sau đây, thời gian thựctế chỉ là tích tắc:Pháo mới kêu to một tiếng đùngHỡi ơi xác pháo đã tan khôngTiếc thay thân pháo không còn nữaNhưng đã tan ra vạn sắc hồng.Về mặt nhịp độ, thời gian trong văn chương có thể trôi nhanh hay chậm; đều đặnêm đềm hay biến động căng thẳng. Thời gian trong bài thơ “Nhật ký” của Hoàng NhuậnCầm sau đây trôi rất nhanh:Sáng: Bình minh ấy là bình minh kỉ niệmChiều: Hoàng hôn như lạ lại như quenTối: Tắc kè kêu ném lưỡi vào đêmCó ngủ được đâuNằm nghe lá thởNằm nghe súng nổThôi, sáng rồi vẫn tiếng gà xóm mẹCuốn võng vào theo hướng súng mà điMối quan hệ thời gian giữa quá khứ, hiện tại và tương lai trong văn chương có thể rất gần+ Thời gian trong văn chương có thể diễn ra cùng chiều với thời gian tự nhiênngoài đời; cũng có thể có sự đảo lộn giữa các khoảng thời gian, sự đồng hiện của cáckhoảng thời gian.VD: Thời gian ở bài “Viếng bạn” của Hoàng Lộc: quá khứ và tương lai rất gầnnhau:Hôm qua còn theo anhÐi ra đường quốc lộSáng nay đã chặt cànhÐắp cho người dưới mộ.....................................Mai mốt bên cửa rừngAnh có nghe súng nổLà chúng tôi đang cốTiêu diệt kẻ thù chungVD: Ở bài “Quê hương” của Giang Nam mối liên hệ thời gian khá xa - từ thuở cònthơ đến cách mạng bùng lên, kháng chiến trường kỳ và hòa bình trở lại.Nhưng điều quan trọng là thời gian trong hình tượng văn chương không chỉ đơnthuần là vấn đề tương quan như thế nào giữa thời gian được miêu tả với thời gian kháchquan, giữa dòng ngôn từ trần thuật với thời gian khách quan. mà là tương quan trước -saugiữa các lớp, đoạn, cảnh, sự kiện, chi tiết.Khả năng nghệ thuật thời gian nghệ thuật của văn chương rất lớn nó chẳng nhữnghơn hẳn sân khấu mà còn hơn hẳn điện ảnh, truyền hình.4. Tính phổ biến trong sáng tác, truyền bá và tiếp nhận:* Các loại hình nghệ thuật khác:Ở các loại hình nghệ thuật khác, dù muốn hay không vẫn hạn chế về tính phổ biến,truyền bá và tiếp nhận bởi chất liệu của chúng là vật thể.* Văn học:- Văn học rất dễ dàng được truyền bá bởi:+Ngôn ngữ là sở hữu chung của mọi người, đồng thời cũng là sở hữu riêng trọn vẹnkhông cần phải chia cho từng người. Nó vừa là phương tiện để tự biểu hiện vừa để tựbiểu hiện.+Văn học ít phải đầu tư về phương tiện vật chất như các ngành nghệ thuật khác.+Người đọc được tự do trong quá trình thưởng thức: đọc nhanh hay chậm, liền mạch haynhảy cóc…- Văn chương truyền bá rất dễ dàng nhưng lại thâm nhập sâu vào bạn đọc. Phươngtiện duy nhất cần thiết cho sự truyền bá là ngôn từ - mà ngôn từ thì ai cũng có điều kiệnvà phương tiện cần thiết cho sự truyền bá cũng thật là đơn giản là những quyển sách hoặcthậm chí không có sách, và bất kỳ ở đâu, lúc nào. Nó khác hẳn sân khấu, điện ảnh, âmnhạc ... là nhũng nghệ thuật mà điều kiện và phương tiện truyền bá có những đòi hỏi nhấtđịnh và nhiều khi rất phức tạp. Bên cạnh đó, văn học tác động sâu sắc tới đời sống tìnhcảm của người đọc theo kiểu “mưa dầm thấm lâu”.II. Văn học với các loại hình nghệ thuật khácỞ phần I, chúng ta đã tìm hiểu những điểm khác của văn học với các ngành nghệ thuậtkhác. Trong phần này, ta sẽ tìm hiểu những điểm giống, điểm tương đồng của văn học sovới các ngành nghệ thuật khác.Biêlinxki coi văn chương là loại nghệ thuật hàng đầu.Thơca là loại nghệ thuật tối cao ... vì vậy, thơ ca bao hàm trong bản thân nó tất cả mọi yếu tốcủa các nghệ thuật khác, dường như nó bất ngờ sử dụng được một cách hữu cơ mọiphương tiện khác nhau của các nghệ thuật khác. Thơ ca chính là toàn bộ chỉnh thể củanghệ thuật...1. Văn học với hội họa- Văn học và hội họa có mối quan hệ mật thiết. Sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa văn chươngvà hội họa khá đa dạng.Trước hết là ở chỗ chúng học tập lẫn nhau các biện pháp, thủpháp nghệ thuật. Chẳng hạn, văn chương sử dụng biện pháp hài sắc, độ sáng tối, luật cậnviễn. Tác giả dân gian đã dùng các màu sắc các màu sắc để vẽ nên màu sắc của sen:Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàngCũng có thể chỉ dùng một thứ màu:Tổ quố c tôi chưa đẹp thế bao giờXanh núi, xanh sông, xanh đồng xanh biểnXanh trời, xanh của giấc mơ.Cũng có thể phối hợp màu sắc [hài sắc]:Một vùng cỏ mọc xanh rìNước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu.Phối hợp xa gần [luật viễn cận]:Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung- Hội họa chịu ảnh hưởng của khả năng nêu vấn đề, phương thức phản ánh của văn học.Trước đây chức năng minh họa của hội họa được đề cao, nhưng do tác động của vănchương và nhiều ngành nghệ thuật khác mà trong mấy thế kỷ nay bản chất hội họa cóthay đổi, tính minh họa bị đưa xuống hàng thứ yếu, điều cốt yếu của hội họa ngày nay làkhả năng khái quát nghệ thuật, tính diễn cảm và năng động.Ngoài ra, chúng ta thường thấy là hội họa tìm các chủ đề và đề tài cho mình từ các hìnhtượng văn chương.VD: Mác Sagan vẽ tranh bằng cách xếp các hình ảnh chồng chất lên nhau theo dòng hồitưởng của nhà văn.2. Văn học với âm nhạcÂm nhạc là nghệ thuật của âm thanh.Từ xưa tới nay, thơ ca và âm nhạc đã có mối quanhệ khăng khít.Veclen khẳng định trong thơ, âm nhạc đi trước tất cả mọi thứ. Một số nhàthơ lãng mạn nhấn mạnh vai trò của âm nhạc: “Rung động có lan trên cánh nhạc mới thựchiện được thơ. Và hồn thơ có lưu thông trên khí nhạc mới bắt kịp được Đạo, cái đệ nhấtnguyên lí, cái lẽ phải cuối cùng” [Xuân thu nhã tập].- Thơ ca chịu ảnh hưởng của âm nhạc ở cách hiệp vần, ngắt nhịp, phối thanh…Ví dụ: Hai câu thơ sau của Xuân Diệu:“Sương nương theo trăng ngừng lưng trờiTương tư nâng lòng lên chơi vơi”Ví dụ: Đoạn thơ sau trong bài “Tây Tiến” là một minh chứng tiêu biểu:Hai câu thơ sử dụng toàn thanh bằng để diễn trạng thái lâng lâng, bay bổng của cảm xúc.- Âm nhạc cũng chịu ảnh hưởng của thơ ca. Trước hết, do âm nhạc luôn luôn vươn tới đạtcho được tính xác định, tính sâu sắc trong nội dung tư tưởng của mình. Do đó, nó kế thừahiện thực đã được lựa chọn, khái quát và nhào nặn của văn chương để tạo ra sự thuận lợi,dễ dàng cho điển hình âm nhạc. Âm nhạc dựa vào văn chương còn vì lí do, thơ ca là chấtliệu cho thanh nhạc. Những bản nhạc bài hát được phổ từ thơ, nhạc sĩ đã khai thaccs 2điều quan trọng của thơ ca: tính nhạc và ngôn từ.VD: Ngôn từ trong các sáng tác của Trịnh Công Sơn giàu tính triết lý, thể hiện chiêmnghiệm của một đời người.VD: Nhiều sáng tác âm nhạc lấy cảm hứng từ thơ ca như “Trường Sơn Đông, TrườngSơn Tây” phổ thơ Phạm Tiến Duật, “Sợi nhớ sợi thương” phổ thơ Thúy Bắc, “Giấc mơtrưa” phổ thơ Nguyễn Vĩnh Tiến.III. Đặc trưng của ngôn từ nghệ thuật- Ngôn từ: quy tắc từ ngữ, chính tả, ngữ pháp…được cộng đồng sử dụng- Ngôn từ nghệ thuật là kết quả của những biện pháp tu từ, cách tổ chức lời văn, nhằmgóp phần bộc lộ giá trị tư tưởng – thẩm mỹ của một tác phẩm cụ thể. Như vậy, ngôn ngữnghệ thuật có điểm giống mà có điểm khác so với ngôn ngữ thông thường. Điểm khác đósẽ được trình bày ở phần tiếp theo.1. Tính thẩm mỹ- Tại sao ngôn ngữ văn học có tính thẩm mỹ?Bởi đáp ứng nhu cầu về cái đẹp là một trong những yêu cầu cơ bản của văn học. Lấy chấtliệu và ngôn ngữ, các nhà văn, nhà thơ hướng sự chú ý vào văn bản, làm cho ngôn ngữvăn học trau chuốt, tinh xác, có sự hòa phối hoàn chỉnh giữa hai mặt ngữ âm và ngữnghĩa…- Biểu hiện: Bản thân ngôn ngữ gồm hai mặt ngữ âm và ngữ nghĩa. Người nghệ sĩ chútrọng khai thác sự hòa phối của hai phần này. Cụ thể như sau:+ Xét về góc độ ngữ âm:Lời văn nghệ thuật gắn liền với các yếu tố: thanh, vần, âm, nhịp điệu...Những yếu tố nàythường tạo được những hiệu quả đáng kể. Trong văn học, khi nhà văn chọn lựa thanhbằng hoặc trắc, trầm hay bỗng, mở hay khép, nhịp điệu khoan hay nhặt...đều có ảnhhưởng đến việc biểu hiện nội dung.Người xưa thường nói "Thi trung hữu nhạc". Lê ÐìnhDiên viết: "Thơ là sự biểu hiện của nhạc, thanh là sự hổ trợ của thơ, tình rung động phátra thành thanh, người ta có thanh mà sau đó có ý".VD: Câu thơ của Tản Ðà:Tài cao phận thấp chí khí uấtGiang hồ mê chơi quên quê hương.Có 5 thanh trắc cuối và hai phụ âm cuối tắt thanh hầu [p,t] tạo nên sự uất nghẹn. Bảythanh bằng kết hợp với các âm cuối vang [n, ng], 3 âm tiết mở [ô, ê, ê] tạo nên sự rộngmở, thanh thoát, phù hợp với tâm trạng thoát trần.Như vậy, sự kết hợp các yếu tố thanh, vần, nhịp điệu...có những vai trò nhất định gópphần diễn đạt những sắc thái khác nhau của lời văn trong tác phẩm nghệ thuật.+ Xét về góc độ ngữ nghĩaCác nhà văn, nhà thơ thường sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ,hoán dụ, đối lập, liệt kê….VD: Cách đây nhiều thế kỉ, Nguyễn Trãi viết:“Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chénNgày vắng xem hoa bợ cây”Khi phiên đọc từ chư Nôm sang chữ quốc ngữ, có người đọc “bợ” thành “bẻ”. XuânDiệu đã tìm ra sự sai sót này. Ông cho rằng “bợ” mới đúng tâm hồn cốt cách phong tháicủa người ánh hùng - nghệ sĩ giàu lòng nhân ái, tâm hồn yêu thương cái đẹp như nướctriều đông cuồn cuộn. Chữ “bợ” khiến hình tượng chủ thể trữ tình trong thơ hiện lên vớivẻ đẹp của nhà hiền triết phương đông.Nhà hiền triết ấy, thích ẩn dật nơi thanh vắng, tìmthú thanh cao để tâm hồn tự tại, thanh tĩnh vĩnh hằng.Vì vậy đêm, Nguyễn Trãi làm bạnvới trăng. Ông nghiêng chén để ánh trăng hoà vào ruợu và hớp nguyệt say với chất mennồng nàn mà cao nhã ấy. Và ánh sáng của vũ trụ đã nhập vào tâm hồn ông, nên ông sángnhư sao Khuê. Ngày ông “bợ” hoa vì hoa là cái đẹp mong manh và yếu ớt.Ông yêu cuộcsống, nên trân trọng sự sống.Nếu đổi “bợ” thành “bẻ”thì đã vô tình đày ải thơ và NguyễnTrãi giữa chốn trần tục một cách thô bạo. Và như thế chất thơ sẽ tiêu và hồn thơ sẽ tan.2. Tính hình tượng- Tại sao ngôn ngữ văn học có tính hình tượng?Văn học phản ánh hiện thực cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật.Thông qua hình tượngmà tác giả phản ánh những vấn đề bản chất, cốt lõi của đời sống.Chất liệu của văn học làngôn ngữ, vì thế, để có thể kiến tạo nên hình tượng đòi hỏi ngôn từ nghệ thuật có tínhhình tượng.Hình tượng trong văn học không khô khan, trừu tượng mà sinh động, cụ thể.- Biểu hiện: Nói tới tính hình tượng chính là nói tới khả năng gợi lên liên tưởng trong tríóc của độc giả. Giá trị của ngôn từ văn học không phải nói đúng các sự thật cụ thể nhưmột thông tin báo chí mà chính là khả năng tái hiện được những bức tranh sinh động củađời sống, bức tranh sinh động trong trí tưởng tượng của con người. Cũng vì vậy mà tínhhình tượng gắn với tính chính xác, biểu cảm…VD: Vốn là anh hùng dân tộc songThục Phán An Dương Vương chỉ xuất hiện trong lịchsử chỉ trong một vài dòng ngắn gọn. Tuy nhiên, hình tượng Thục Phán An Dương Vươngđã trở nên sinh động, gần gũi với đời thường trong “Truyền thuyết An Dương Vương vàMị Châu – Trọng Thủy”.VD: Người đọc như thấy hiện ra trước mặt bức chân dung Thúy Vân, Thúy Kiều sinhđộng trong đoạn trích “Hai chị em Thúy Kiều”.3. Tính biểu tượng, đa nghĩa- Tại sao ngôn ngữ văn học có tính biểu tượng và đa nghĩa?Văn chương nghệ thuật là sự hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.Hiện thực cuộcsống đi vào văn học bao giờ cũng được chọn lọc, kết tinh những vấn đề bản chất nhất.Vìthế, hình tượng văn học bao giờ cũng mang nhiều tầng ý nghĩa, chứa đựng những vấn đềnhân sinh…Mặt khác do muốn thể hiện tầng ý nghĩa rộng lớn mà chỉ giới hạn trong mộtdung lượng nhất định, văn học cần xây dựng những biểu tượng, lớp ngôn ngữ đa nghĩa.- Biểu hiện: Tính biểu tượng và tính đa nghĩa song hành với nhau. Sở dĩ văn học tạo nênđược các biểu tượng là bởi ngôn ngữ văn học có tính đa nghĩa.+ Văn học đã xây dựng những hệ thống biểu tượng. Biểu tượng trog văn học là nhữnghình ảnh cụ thể, sinh động. VD: biểu tượng “con cò” trong ca dao là tượng trưng chongười phụ nữ Việt Nam lam lũ, tảo tần, giàu đức hi sinh…VD: Hình ảnh miếng trầu têm cánh phượng trong truyện cổ tích “Tấm Cám” không chỉ làvật gắn kết giữa nhà vua và cô Tấm mà còn là biểu tượng của sự thủy chung, son sắt.+ Tính đa nghĩa biểu hiện ở việc một từ trong văn bản có thể mang nhiều nghĩa.VD: Trong bài “Mùa xuân nho nhỏ”Mùa xuân người cầm súngLộc trải đầy trên lưngMùa xuân người ra đồngLộc trải dài nương mạĐiệp từ "lộc" láy lại đầu câu có nhiều nghĩa khác nhau. Từ "lộc" theo nghĩa gốc là chồinon, lá mới, là cành lá ngụy trang trên lưng người chiến sĩ ra mặt trận.Từ“lộc” theo nghĩachuyển biểu thị cho một niềm tin, một sức sống, là sự trẻ trung, biểu trưng cho sức sốngcủa mùa xuân.4. Dấu ấn riêng của tác giả- Tại sao ngôn ngữ văn học mang dấu ấn riêng của tác giả?Bởi ngôn ngữ là tài sản chung của mọi người song khi đi vào tác phẩm văn học nó đãđược tác giả nhào nặn, mang những nét riêng của mỗi cá thể phụ thuộc vào vốn sống, trảinghiệm, mức độ ưa thích khi sử dụng một số từ ngữ, giọng điệu…- Biểu hiện:Dấu ấn riêng của tác giả về mặt ngôn ngữ có thể biểu hiện qua một số khía cạnh như:- Cách sử dụng từ ngữ, tổ chức câu văn, các biện pháp tu từ, các hình ảnh ưa thích…- Giọng điệuVD: Thơ Hàn Mặc Tử thường xuất hiện hình ảnh trăng, máu; thơ Xuân Diệu thường xuấthiện hình ảnh con đường, khu vườn.VD: Giọng điệu trong văn Nam Cao thường lạnh lùng mà giàu yêu thương, giọng điệutrong văn Nguyễn Công Hoan thiên về hài hước, châm biếm.

Video liên quan

Chủ Đề