Nuôi ngan thịt bảo lâu thì xuất chuồng

Thứ tư, 11/04/2018 - 07:15 AM

Vợ chồng ông Đỗ Xuân Sơn ở đội 4, xã Đình Dù, huyện Văn Lâm, Hưng Yên, đã gần 60 tuổi, nhưng vẫn thu đều 40 triệu đồng mỗi tháng, nhờ chăn nuôi ngan Pháp.

Đàn ngan giống của ông Sơn

Trò chuyện với chúng tôi, ông Sơn cho biết, cách nuôi ngan trong gia trại của ông khá khác người là: Chỉ nuôi ngan mái chứ không nuôi ngan đực. Làm sàn lưới inox cho ngan ở. Và lấy nhiệt từ bếp đun khí biogas úm ngan con.

Giải thích cho cách làm nói trên, ông Sơn đã bật mí: Ngan mái nuôi xuất chuồng phù hợp với nhu cầu sử dụng và túi tiền của các gia đình nông thôn hơn, vì khối lượng chỉ khoảng 2,3 - 2,5kg/con, nên rất dễ bán.

Ngoài ra còn có thể kết hợp vừa bán sỉ cho thương lái vừa bán lẻ người tiêu dùng, để luôn có lợi nhuận, nhất là những vào những thời điểm ngan thịt xuống giá, thương lái ép giá hoặc không mua.

Còn việc làm sàn inox cho ngan ở là để giúp cho công việc vệ sinh chuồng trại được dễ dàng hơn, tạo thêm được môi trường thoáng mát cho ngan sinh trưởng, giảm thiểu rủi ro dịch bệnh. Cách đốt khí biogas thông qua vật dụng kim loại, để lấy nhiệt úm gà cũng là nhằm tiết kiệm chi phí điện năng trong chăn nuôi.

Bằng cách làm này, gia đình ông Đỗ Xuân Sơn đã thường xuyên nuôi gối đàn gần 800 con ngan Pháp. Bình quân mỗi tháng gia trại xuất bán ra thị trường được 500 con ngan mái thương phẩm, doanh thu gần 60 triệu đồng. Sau khi khấu trừ các khoản đầu tư con giống, thức ăn chăn nuôi, thuốc phòng ngừa dịch bệnh, tỷ lệ hao hụt trong quá trình nuôi,và khấu hao chuồng trại khoảng 20 triệu, thì vợ chồng ông Sơn vẫn còn còn lãi được trên 40 triệu đồng/tháng.

Khách thăm nhà ông Sơn nếu không được giới thiệu trước, chắc sẽ không thể biết gia đình có gia trại đang nuôi ngan. Bởi dãy chuồng chăn nuôi khá gần nhà, nhưng không hề có tiếng ngan kêu hoặc mùi hôi hám khó chịu thoát ra. Qua đó cho thấy, gia trại nuôi luôn được vệ sinh, khử trùng tiêu độc kịp thời, có hầm biogas xử lý triệt để chất thải và cho ngan ăn uống đầy đủ nước và dưỡng chất.

Qua tìm hiểu thực tế chúng tôi thấy, để nuôi ngan luôn đạt được lợi nhuận cao, ông Sơn đã chọn mua con giống có mắt sáng, lông bông, bụng gọn, chân mập, đi lại nhanh nhẹn, lông tơ có màu vàng chanh, có phớt đen ở đầu. Chuồng trại xây dựng bảo đảm thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đồng. Trong chuồng xây ngăn thành nhiều ô, để chia giãn đàn ngan nuôi nhốt đúng mật độ, phù hợp tuổi sinh trưởng của đàn.

Đáng chú ý, khi thiết kế sàn nuôi ngan ông Sơn đã có sáng kiến buộc chồng 2 loại lưới thép B40 với lưới inox [1 x 1cm] với nhau thành tấm, rồi lát trên hệ thống khung ống kẽm kê cao 30 - 35cm so với nền chuồng bê tông láng bóng. Nhà úm ngan cũng được thiết kế tương tự, nhưng kín gió hơn và diện tích hẹp hơn.

Để lấy nhiệt úm ngan, ông Sơn đã tận dụng lại các chậu kim loại nhôm phế liệu, đục thêm 1 số lỗ xuyên qua đáy, úp chậu lên bếp gas sinh học chuyên dụng [loại cho đun khí hầm biogas], sau bật bếp đốt nóng chậu nhôm, chờ khi nhiệt toả ấm phòng úm mới thả ngan giống vào.

Quan sát, nếu thấy con giống dồn chụm nằm đè lên nhau thì cần điều chỉnh tăng ngọn lửa bếp gas. Ngan úm nằm tản xa nguồn nhiệt thì giảm ngọn lửa bếp. Ngan úm phân bố đều quanh nguồn nhiệt là đạt yêu cầu. Cách úm ngan này, kết hợp với hệ thống chiếu sáng trại nuôi bằng bóng điện Led, đã giúp gia đình ông Sơn giảm được 50% chi phí điện năng cho chăn nuôi.

Các kỹ thuật chăn nuôi khác như: Thức ăn cho ăn ngan, nên phối trộn cám công nghiệp với cám ngô cho ngan ăn theo hướng dẫn của nhà sản xuất ghi trên bao gói. Phòng ngừa kịp thời các bệnh thường gặp trên ngan nuôi như tiêu chảy, thương hàn và tụ huyết trùng...

Chú ý, bổ sung thức ăn cho ngan ăn liên tục suốt ngày, để ngan mau lớn, chắc thịt, diều nhỏ, dễ bán. Thực tế cho thấy, nếu cho ngan ăn theo bữa, diều ngan thường khá to, khi bán thường bị người mua chê và ép giá.

Chia sẻ với chúng tôi, ông Sơn đã so sánh: Cùng diện tích trại ngan này, cách nay 4 năm vợ chồng ông nuôi được 20 con lợn, nhưng thu lãi cả năm mới bằng hơn 1 tháng nuôi ngan bây giờ, mà vốn đầu tư con giống lại cao gấp tới 10 lần. Nếu không may bị rủi ro thì thất thoát rất lớn, khó có khả năng phục hồi đàn. Theo đó ông Sơn đã khuyến cáo, ở quy mô gia trại, mọi người nên phát triển chăn nuôi gia cầm nói chung, nuôi ngan nói riêng.

Thấy ông Sơn mát tay nuôi ngan, đã có một số chủ trang trại trên địa bàn, mời ông liên kết mở rộng đàn ngan nuôi lên 3 - 5 nghìn con, nhưng ông còn cân nhắc!

Bài học đắt giá nhất trong nghề nuôi ngan của vợ chồng ông Sơn là: Đã dùng thuốc phòng tả lợn để trị tiêu chảy cho ngan. Sau lần đó cả đàn ngan trên 500 con của gia đình ông bị chết toàn bộ. Trị giá thất thoát tới hơn 4 triệu đồng.

Trong bài viết này Trại giống Việt Pháp sẽ chia sẻ Kỹ thuật nuôi ngan từ 1- 56 ngày tuổi và 12 kinh nghiệp thực tế từ việc chăn nuôi ngan thương phẩm đạt hiệu quả kinh tế cao trong những năm vừa qua.

1. Chuẩn bị chuồng nuôi ngan đúng kỹ thuật:

Trước khi mua ngan giống về nuôi phải dọn sạch chuồng, nền chuồng, tường, lưới. Phải quét vôi nền chuồng và xung quanh tường cao 0,8 – 1 m.

Sau khi chuồng khô cho dăm bào, trấu, rơm hoặc rạ băm nhỏ làm độn chuồng và xông bằng foocmon + thuốc tím hoặc phun crerin. Nuôi nhốt kết hợp với chăn thả phải chuẩn bị vây ràng. Có thể nuôi trên sàn lưới.

Rửa máng ăn, máng uống sạch sẽ sau đó ngâm vào dung dịch foocmôn 0,3 – 0,4% rồi để khô. Nuôi nhốt kết hợp với chăn thả nên sử dụng mẹt bằng tre hoặc nilong thay máng ăn cho ngan.

Chuồng nuôi ngan phải thoáng mát, đủ ánh sáng, không có gió lùa.

Trước khi đưa ngan con vào phải sưởi ấm chuồng trước.

2. Nhiệt độ chuồng nuôi ngan

Để đảm bảo cho ngan mạnh khoẻ nhiệt, độ chuồng nuôi khi ngan 1 – 3 ngày tuổi phải đạt 30 – 320C. Từ ngày tuổi thứ 4 trở đi, mỗi ngày giảm 10C cho tới khi đạt 200C.

Nhiệt độ chuồng nuôi được đo ở độ cao trên đầu ngan. Trung bình cứ 200W cho 75 con ngan và 140 con ngan cần 1 chụp sưởi. ở những nơi không có điện cần sưởi ấm bằng đèn tọa đăng, nước nóng, bếp trấu, bếp than nhưng phải hạn chế khí CO2.

3. Ẩm độ không khí

Ẩm độ thích hợp cho ngan con là 60 – 70%, song ở nước ta ẩm độ không khí rất cao có khi lên tới 80 – 90%. ẩm độ cao nguy hiểm cho ngan con, nền chuồng ướt làm cho ngan con cảm nhiễm bệnh dễ dàng, mật độ chuồng nuôi và ẩm độ không khí tỷ lệ thuận cho nên ẩm độ cao cần phải hạ thấp mật độ ngan và ngược lại. Khi độ ẩm cao cần phải đảo chất độn chuồng và cho thêm chất đôn chuồng khô hàng ngày để giữ cho ngan ấm chân và sạch lông.

4. Mật độ và độ lớn của đàn

Hai yếu tố mật độ và độ lớn của đàn tác động trực tiếp đến khả năng sinh trưởng và chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cơ cấu đàn nhỏ có thể tăng mật độ và ngược lại, nuôi nhốt kết hợp với chăn thả còn phụ thuộc vào bãi chăn thả.

Giai đoạn tuổi                  Hình thức nuôi                        Mật độ tối đa [con/m2]

1 – 10 ngày tuổi           Chuồng không sân chơi                        32

11 – 28                       ngày tuổi Chuồng có sân chơi              18

29 – 56                       ngày tuổi Nuôi nhốt                               6

5. Chế độ chiếu sáng

Từ tuần lễ thứ 1 đến tuần thứ 2 chiếu sáng 24/24 h, sau đó là 18/24h. Cường độ ánh sáng cho ngan trong giai đoạn này là:

1 – 10 ngày tuổi 3W/m2

11 – 56 ngày tuổi 1,5W/m2. Trong thời gian này ban ngày sử dụng ánh sáng tự nhiên.

Ở những nơi không có điện, cần thắp sáng bằng đèn dầu đảm bảo đủ ánh sáng để ngan đi lại ăn, uống một cách bình thường, chống xô đàn và đè nhau gây tỷ lệ chết cao.

6. Thông thoáng

Lượng cung cấp không khí phụ thuộc vào độ ẩm và quyết định bởi chất độn chuồng. Lượng không khí trao đổi phải đảm bảo sạch cho những khí thải của phân được đưa ra ngoài và nhiệt độ cần cho ngan ở mức cho phép. Trong giai đoạn ngan con 1 – 14 ngày tuổi, tốc độ gió không được quá 0,3 m/s.

7. Cung cấp nước uống

Ngan là loại thuỷ cầm cần rất nhiều nước uống, đảm bảo nước phải trong sạch và thường xuyên. Ngan ở tuần tuổi thứ nhất không cho uống nước lạnh dưới 10 – 120C, tuần tuổi thứ 2 và 3 không lạnh quá 6 – 8oC và cũng cần hạn chế ngan uống nước trên 20oC. Nhu cầu nước uống trung bình:

1 – 7 ngày tuổi: 120 ml/con/ngày.

8 – 14 ngày tuổi: 250 ml/con/ngày.

15 – 24 ngày tuổi: 250 ml/con/ngày.

22 – 56 ngày tuổi: 500 ml/con/ngày.

Nếu là nuôi chăn thả cho ngan uống nước những nơi nước trong, sạch, ở những nơi nhốt ngan ban đêm nên có máng nước cho ngan uống.

8. Thức ăn và nuôi dưỡng

Dùng thức ăn hỗn hợp dạng viên, hoặc thức ăn đậm đặc trộn với cơm, hoặc dùng các đơn nguyên như: Tấm, ngô, gạo lứt, đỗ tương, khô đỗ tương, cám gạo, bột cá nhạt, bột màu, bột đầu tôm, premix VTM, khoáng hoặc dùng cơm [cho ngan con]. Thóc luộc, thóc sống [cho ngan choai, hậu bị, sinh sản] trộn với mồi tươi [30 – 40% tuỳ loại] như: Tôm, tép, cua, ốc, giun đất, don dắt, rạm, bọ đỏ . . . và các loại côn trùng khác. Có thể dùng bổ sung thêm rau xanh.

Chia làm 2 giai đoạn:

+ Giai đoạn 1 – 21 ngày tuổi : Thức ăn đạt 18% đạm tiêu hoá, năng lượng 2.890 kcal.

+ Giai đoạn 22 – 56 ngày tuổi : Thức ăn đạt 16% đạm tiêu hoá, năng lượng 2.890 kcal.

Ngan thương phẩm thức ăn đạt 15% đạm tiêu hoá, năng lượng 3.000 kcal.

Không sử dụng khô dầu lạc trong khẩu phần ăn cho ngan vì dễ nhiễm Aflatoxin, riêng ngô nên sử dụng cho ngan nuôi giống không quá 20%, ngan nuôi thương phẩm không quá 30%.

9. Kỹ thuật cho ăn khi nuôi ngan:

Trước khi cho ngan ăn phải dọn máng, quét bỏ những thức ăn thừa, hôi, thối và mốc, cho ngan ăn làm nhiều lần trong ngày để tránh rơi vãi và ôi chua, tách những con nhỏ cho ăn riêng để ngan phát triển đồng đều.

Ngan 28 ngày tuổi giữ trọng lượng trung bình ngan mái 0,6 kg, trống 0,8 kg/con. 56 ngày tuổi trung bình ngan mái 1,5 kg, trống 2,3 kg/con.

+ Giai đoạn ngan từ 1 – 29 ngày tuổi : Dùng thức ăn dạng viên hoặc gạo nấu thành cơm và trộn với thức ăn giàu đạm cho ngan ăn. Đối với ngan chăn thả khi cho ăn trên nền hoặc nilon phải rắc thức ăn đều và rộng để tất cả ngan được ăn một lúc.

Từ ngày tuổi 29 – 56 cho ăn 112 gr/con /ngày. Ở giai đoạn 29 ngày tuổi trở đi mục tiêu là giữ cho đàn ngan giống phát triển trọng lượng theo biểu đồ, vì sự sai khác về trọng lượng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sau này. Nếu trọng lượng vượt phải giảm lượng thức ăn hàng ngày và ngược lại.

Đối với ngan nuôi thương phẩm cho ngan ăn tự do [cả nuôi nhốt và nuôi thả]. Đến 63 ngày tuổi [nuôi nhốt] 84 ngày tuổi [nuôi chăn thả] là kết thúc đạt trọng lượng giết thịt.

10. Kiểm tra đàn ngan

Trạng thái đàn ngan cho phép ta đánh giá về sức khoẻ của nó :

– Ngan con phân tán đều khắp chuồng chứng tỏ đàn ngan khoẻ mạnh, thoải mái, nhiệt độ trong chuồng đạt yêu cầu.

– Ngan con dồn đống là do lạnh, nhiệt độ chuồng nuôi thấp.

– Ngan con nằm há mỏ, cánh dơ lên là do nhiệt độ chuồng nuôi quá cao

– Ngan không chơi hoặc nằm ở khu vực nhất định là chắc chắn có gió lùa.

– Ngan bị bết dính là do chuồng ẩm, chế độ nuôi dưỡng kém.

Kiểm tra sức khoẻ đàn ngan hàng ngày:

Những con ngan ốm yếu cần loại ngay ra khỏi đàn, khi đàn ngan biếng ăn, biếng uống, phân thay đổi phải báo ngay cho thú y. Kết thúc giai đoạn 56 ngày tuổi chọn giống để chuyển lên hậu bị. Để tỷ lệ đực/ mái cho các đàn giống là 1/4.

11. Định mức về thuốc thú y nuôi ngan

– Dịch tả ngan – vịt : 5.000đ/con/năm.

– Thuốc phòng tụ huyết trùng. 1.000đ/con/năm

– Thuốc điều trị các bệnh khác : 1.000 đ/con/năm.

Tổng cộng: 7.000 đ/con/năm.

12. Một số chỉ tiêu kinh tế khi nuôi ngan Pháp và ngan nội

– Số trứng đẻ trong 1 năm ngan Pháp : 164 quả; ngan Nội : 80 – 90 quả.

– Ngan Pháp đã khử gen tính đòi ấp. Tuy nhiên chưa triệt để khoảng 10% vẫn còn tính đòi ấp.

– Dòng R31 chậm đẻ hơn so với dòng R31 [ngan Pháp]

Mời các bà con tham khảo thêm các bài viết:

–  Cách lựa chọn Ngan Pháp, giá ngan pháp giống

–  Cách lựa chọn mua ngan đen giống, giá ngan đen giống

Bài viết liên quan

Bình luận

bình luận

Video liên quan

Chủ Đề