Nước cham-pa đóng đô ở đâu

Thành Đồ Bàn hay Vijaya [tiếng Phạn विजय, nghĩa Việt: Thắng lợi] còn gọi là thành cổ Chà Bàn hoặc thành Hoàng Đế, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, Thị xã An Nhơn và cách thành phố Quy Nhơn [tỉnh Bình Định, Việt Nam] 27 km về hướng tây bắc, là tên kinh đô của Chăm Pa trong thời kỳ Chăm Pa có quốc hiệu là Chiêm Thành. Vijaya đồng thời cũng là tên gọi của một trong bốn địa khu/vùng/tiểu quốc của Chăm Pa, Địa khu Vijaya.

Lịch sử

Tháp Cánh Tiên hiện còn trong thành Vijaya xưa

Sau khi kinh đô cũ Indrapura bị quân đội Lê Hoàn của Đại Cồ Việt tấn công và phá hủy năm 982. Triều đình Chăm Pa lánh nạn vào phương Nam. Lưu Kế Tông, một vị tướng của Lê Hoàn đã ở lại và cai trị khu vực bắc Chăm từ Quảng Bình vào Quảng Nam ngày nay.

Ở phía Nam, người Chăm đã tôn một vị lãnh đạo của mình lên ngôi với tên hiệu là Harivarman II vào năm 988. Ông đã cho xây dựng Vijaya là quốc đô của mình. Sau cái chết của Lưu Kế Tông, người Việt rút lui khỏi vùng đất phía bắc, Harivarman II đã lấy lại và dời đô và kinh đô cũ Indrapura, tuy nhiên tới khoảng năm 999 vị vua kế tiếp là Sri Vijaya Yangkupu đã vĩnh viễn dời đô về Vijaya. Việc dời đô về Vijaya được Tống sử ghi lại khi đoàn sứ thần của Chăm Pa tới nhà Tống [Trung Quốc] vào năm 1005.

Trong 5 năm thế kỷ là kinh đô, Vijaya phải chịu nhiều cuộc tấn công từ Đại Việt, Chân Lạp, Xiêm, Nguyên Mông. Người Khmer đã tấn công vào rất nhiều lần, có những thời gian Vijaya chịu sự cai trị của Chân Lạp từ 1145-1149 và 1190-1192. Xiêm La dưới thời vương triều Sukhothai cũng góp phần vào trận chiến năm 1313 nhưng sau đó đã rút lui bởi sự can thiệp của nhà Trần [Đại Việt], Nguyên Mông tấn công Vijaya và năm 1283. Nhưng nhiều nhất vẫn là các cuộc tấn công từ các vương triều Đại Việt, các thống kê cho thấy Vijaya bị tấn công từ Đại Việt vào các năm 1044, 1069, 1074 [nhà Lý], 1252, 1312, 1377 [nhà Trần], 1403 [nhà Hồ], 1446, 1471 [nhà Lê]. Trận chiến tại thành Vijaya vào năm 1471 với quân đội nhà Lê [Đại Việt] cũng chấm dứt sự tồn tại sau 5 thế kỷ là quốc đô của Vijaya, Chăm Pa mất hoàn toàn miền bắc vào Đại Việt và lui về vùng phía nam đèo Cù Mông.

Thời gian biểu

Năm 982 triều đại vua Yangpuku Vijaya [tiếng Hán Việt là Ngô Nhật Hoan ?] thành Đồ Bàn được xây dựng. Đây là kinh đô cuối cùng của vương quốc Chăm Pa và các vua Chăm đã đóng ở đây từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 15.

Năm 1376, trong trận Đồ Bàn, vua Trần Duệ Tông đem 120.000 quân bộ, thủy đánh thành Đồ Bàn bị Chế Bồng Nga đánh bại, Trần Duệ Tông tử trận.

Năm 1403, Hồ Hán Thương sai tướng đem 200.000 lính vây đánh thành Đồ Bàn ngót hai tháng trời, nhưng bị quân Chiêm Thành phản công quyết liệt, phải rút quân về nước.

Năm 1471, vua Lê Thánh Tông đem một đoàn lục, thủy quân hùng mạnh sang đánh Chăm Pa. Sau khi chiếm được, Lê Thánh Tông ra lệnh phá hủy thành Đồ Bàn.

Năm 1778, Nguyễn Nhạc tự xưng là Trung ương Hoàng Đế nhà Tây Sơn, đóng đô ở đây, nên còn gọi là thành Hoàng Đế, ông cho mở rộng về phía Đông, xây dựng nhiều công trình lớn.

Năm 1799, thành bị quân Nguyễn Ánh chiếm, đổi gọi là thành Bình Định.

Ngày nay, thành Hoàng Đế là một trong những di tích giá trị, quan trọng trong nghiên cứu lịch sử quân sự và khảo cổ học.

Sư tử đá của Chăm Pa tại thành Vijaya vẫn còn

Vijaya nằm tại vị trí mà hiện nay là xã Nhơn Hậu, Thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Cách quốc lộ 1A khoảng 2 km, toàn thể kinh thành nằm trên một vùng đất cao so với các cánh đồng xung quanh

Theo ghi chép trong Doanh Nhai Thắng Lãm của Mã Đoan, viên thông ngôn của Trịnh Hòa [người nhà Minh, Trung Quốc] đến Vijaya khoảng năm 1413 thì kinh đô Chăm Pa thời kỳ này được miêu tả như sau:

Đi theo hướng tây nam một trăm lý thì sẽ tới kinh thành nơi nhà vua ngự, người ngoại quốc gọi là "Chiêm Thành". Kinh thành có lũy bằng đá bao quanh, ra vào qua bốn cổng, có lính canh gác. Điện vua thì cao và rộng, phần mái ở trên lợp ngói nhỏ hình thuẫn; bốn bức tường bao quanh có đắp trang trí công phu bằng gạch và hồ, rất gọn ghẽ. Các cánh cửa được làm bằng gỗ cứng, chạm trổ hình thù dã thú và cầm súc. Nhà cửa dân cư trong thành lợp mái tranh, chiều cao mái hiên [tính từ mặt đất] không quá ba "thước", ra vào phải khom lưng cúi đầu, ai cao quá thì thật là bực mình

Vijaya là kinh đô của Chăm Pa trong 5 thế kỷ, từ năm 999 đến năm 1471. Trong khoảng thời gian này, các triều vua Chăm cho xây dựng rất nhiều công trình ở kinh đô, nay còn lại là tám ngôi tháp.

Qua các cuộc xung đột với Đại Việt, Champa mất dần các trấn phía bắc: Indrapura, Amaravati rồi đến năm 1471 thì chính Vijaya bị quân của vua Lê Thánh Tông vây hãm. Quân nhà Lê hạ được sau khi giao tranh đẫm máu. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì quân Việt bắt sống hơn 30.000 người Chiêm, trong đó có vua Trà Toàn còn 40.000 lính Chiêm tử trận. Đồ Bàn từ đó bị bỏ hoang.

Mãi đến cuối thế kỷ 18, vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc mới ra lệnh xây dựng Thành Hoàng Đế trên nền cũ thành Vijaya cũ để làm kinh đô. Năm 1799 quân chúa Nguyễn Phúc Ánh tái chiếm thành Hoàng Đế và đổi tên là Thành Bình Định. Sang triều Gia Long năm 1816, nhà vua cho phá bỏ thành Bình Định và chuyển thủ phủ về Quy Nhơn.

Hiện nay dấu tích của vương triều Chăm Pa tại Vijaya còn lại là đôi sư tử bằng đá, chạm trổ theo phong cách nghệ thuật Bình Định vào thế kỷ 12-14. Ngoài ra có ngôi Tháp Cánh Tiên, một trong các phong cách nghệ thuật các tháp Chăm.

Di tích Đồ Bàn hiện nay không còn mấy ngoài tường lũy bằng đá ong, ngoài là hào cạn. Trong thành vẫn còn lối đi lát đá hoa cương, một thửa giếng vuông, tượng voi đá, và bên cửa hậu là gò Thập Tháp.

Đặc biệt có ngôi tháp Cánh Tiên cao gần 20 mét, góc tháp có tượng rắn làm bằng đá trắng, voi đá và nhiều tượng quái vật. Kiến trúc tháp này được coi là tiêu biểu cho phong cách Bình Định có niên đại nửa sau thế kỷ 11 sang đầu thế kỷ 12, thuộc triều vua Harivarman IV [1074-1081] và Harivarman V [1113-1139].

Phía Bắc thành có Chùa Thập Tháp Di Đà [được xây trên nền của mười tháp Chăm cổ]; phía Nam thành có chùa Nhạn Tháp, đều là những ngôi chùa cổ. Khu vực Đồ Bàn nói chung còn giữ được nhiều di tíchliên quan đến văn hóa Chăm Pa và phong trào Tây Sơn như lăng Võ Tánh, lăng Ngô Tùng Châu, cổng thành cũ.

Trong lăng còn chiếc lầu bát giác cổ kính, trong lầu còn tấm bia đá khắc công tích của Ngô Tùng Châu và Võ Tánh [năm 1800]. Bia bằng đá trắng, chịu nhiều gió bụi thời gian đến nay đã mòn cả những chữ Hán khắc trên đó.

Hiện nay Phường Đập Đá nằm ngay bên ngoài thành.

Di tích xung quanh

  • Thành Bình Định
  • Tháp Hưng Thạnh
  • Tháp Dương Long
  • tháp Bánh Ít
  • Tháp Cánh Tiên
  • Núi Bà [Bình Định]

Xem thêm

  • Kandapurpura
  • Sinhapura
  • Indrapura
  • Virapura
  • Tôn giáo của người Chăm
  • Lịch sử Chăm Pa
  • Thành Đồ Bàn
  • Sự suy vong của Vương quốc Chăm Pa
  • Niên biểu quan hệ Đại Việt-Chăm Pa

Tham khảo

Chủ đề Việt Nam

Tham khảo

[Nguồn: Wikipedia]

- Thời Hán, sau khi chiếm được Giao Chỉ và Cửu Chân đã tiến xuống phía nam chiếm cả đất của người Chăm cổ, đặt ra huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam. Huyện Tượng Lâm [ngày nay thuộc Quảng Nam, Quãng Ngãi, Bình Định] là địa bàn sinh sống của người Chăm cổ.

- Vào thế kỷ II nhà Hán suy yếu, không thể kiểm soát được các quận ở xa, lợi dụng cơ hội đó vào năm 192-193 nhân dân huyện Tượng Lâm dưới sự lãnh đạo của Khu Liên đã nổi dậy chống lại quân đô hộ của nhà Hán và giành được độc lập. Khu Liên tự xưng là vua, đặt tên nước là Lâm ấp.

-  Quốc gia Lâm Ấp có lực lượng quân sự khá mạnh [4 – 5 vạn quân thường trực], biết hợp nhất 2 bộ lạc Dừa và Cau đánh bại nhà Hán, tấn công các nước láng giềng, mở rộng lãnh thổ đến tận Hoành Sơn [phía Bắc], Phan Rang [phía Nam].

-  Đổi tên nước thành Cham-pa, đóng đô ở Sin- ha- pu- ra [Trà Kiệu Quảng Nam].

Lược đồ Giao Châu và Cham-pa giữa thế kỷ VI đến X

 

2. Tình hình kinh tế, văn hoá Chăm–pa từ thế kỷ II đến thế kỷ X

* Kinh tế

-  Nông nghiệp trồng lúa nước, mỗi năm 2 vụ, sử dụng công cụ bằng sắt, dùng trâu bò kéo cày, biết làm ruộng bậc thang, sáng tạo xe guồng nước.

-  Ngoài ra họ còn trồng cây ăn quả[cau, dừa, mít], khai thác lâm thổ sản [trầm hương, ngà voi, sừng tê,...], làm đồ gốm, đánh cá.

- Người Chăm-pa cũng buôn bán với nhân dân các quận ở Giao Châu, Trung Quốc và Ấn Độ.

* Văn hóa

-  Người Chăm có chữ viết riêng bắt nguồn từ chữ Phạn của người Ấn Độ.

Các kí tự Chăm cổ

Công cụ lao động của cư dân văn hóa Sa Huỳnh - tiền thân nước Cham-pa

-  Theo đạo Bà La Môn và đạo Phật.

-  Có tục hỏa táng người chết.

-  Họ ở nhà sàn và ăn trầu cau. 

-  Nghệ thuật đặc sắc: tháp chàm, đền, tượng, các bức chạm nổi,...

Tháp Chăm - công trình nghệ thuật đặc sắc của người Chăm

Kiến trúc và điêu khắc - những thành tựu nổi bật của Cham-pa

Vương miện vua Chăm-pa

- Người Chăm có quan hệ gần gũi với người Việt, và luôn ủng hộ những cuộc nổi dậy của người Việt. Đồng thời, người Việt ở Giao Châu cũng ủng hộ nhiều cuộc nổi dậy của nhân dân Tượng Lâm và Nhật Nam.

* HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI 

1. Quan sát lược đồ "Giao Châu và Cham pa giữa thế kỉ VI - X", em hãy xác định vị trí của quận Nhật Nam.

Trả lời :

Quận Nhật Nam [từ Hoành Sơn trở vào đến Quảng Nam] gồm 5 huyện : Tây Quyển, Chu Ngô, Tỉ Cảnh, Lô Dung và Tượng Lâm là huyện xa nhất về phía nam [từ đèo Hải Vân đến đèo Đại Lãnh nay thuộc đất Quảng Nam, Quảng Ngãi]

2. Huyện Tượng Lâm vốn là địa bàn sinh sống của bộ lạc nào ? Thuộc nền văn hoá gì ?

Trả lời :

Huyện Tượng Lâm là địa bàn sinh sống của Bộ lạc Dừa - tức người Chăm cổ. Thuộc nền văn hoá đồng thau Sa Huỳnh [Quảng Ngãi] khá phát triển.

3. Nhân dân Tượng Lâm đã giành được độc lập trong hoàn cảnh nào ?

Trả lời :

Vào thế kỉ II, dưới ách thống trị của nhà Hán, nhân dân Giao Châu nhiều lần nổi dậy, nhà Hán tỏ ra bất lực nhát là đối với các huyện xa như Tượng Lâm. Lợi dụng cơ hội đó, năm 192-193, nhân dân huyện Tượng Lâm, dưới sự lãnh đạo của Khu Liên đã nổi dậy đánh đuổi quân đô hộ , giành độc lập. Khu Liên tự xưng làm vua đặt tên nước là Lâm Ấp.

4. Nước Cham-pa độc lập ra đời như thế nào ?

Trả lời :

- Năm 192- 193, nhân dân huyện Tượng Lâm, dưới sự lãnh đạo của Khu Liên, đã nổi dậy giành độc lập. Ông tự xưng làm vua, đặt tên nước là Lâm Ấp.

- Sau một thời gian độc lập, các vua Lâm Ấp đã hợp nhất bộ lạc Dừa với bộ lạc Cau ở phía Nam, tấn công các nước láng giềng mở rộng lãnh thổ, làm chủ cả vùng đất từ Hoành Sơn [Quảng Bình] đến Phan Rang [Bình Thuận] rồi đổi tên nước là Cham-pa, đóng đô ở Sin-ha-pu-ra [Trà Kiệu - Quảng Nam]

5. Nhìn trên lược đồ "Giao Châu và Cham-pa giữa thế kỉ VI - X", hãy xác định vị trí nước Cham-pa.

Trả lời :

Nước Cham-pa có vị trí về phía Bắc dãy Hoàng Sơn [huyện Tây Quyển], phía nam đến Phan Rang.

6. Em có nhận xét gì về quá trình thành lập và mở rộng nước Cham-pa ?

Trả lời :

- Quá trình hình thành và mở rộng nhà nước Champa diễn ra trên cơ sở các hoạt động quân sự và kết quả của việc đánh bại chính quyền đô hộ, tấn công các nước láng giềng để mở rộng lãnh thổ.

- Sau ngày thành lập, Cham-pa không ngừng lớn mạnh. Vua Champa chia nước thành nhiều khu vực dọc theo các dải đồng bằng hẹp từ Hoành Sơn đến Phan Rang.

7. Nêu những thành tựu về kinh tế của Cham-pa ?

Trả lời :

- Nông nghiệp trồng lúa nước là ngành kinh tế chính, mỗi năm trồng 2 vụ lúa. Họ còn làm ruộng bậc thang ở sườn đồi, núi. Biết sử dụng công cụ bằng sắt và sức kéo của trâu, bò.

- Họ biết trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, khai thác lâm thổ sản, làm đồ gốm, đánh cá.

- Mở rộng trao đổi buôn bán với nước ngoài.

8. Em có nhận xét gì về trình độ kinh tế của Cham-pa từ thế kỉ II đến thế kỉ X ?

Trả lời  :

Nhân dân Cham pa đã đạt được trình độ phát triển kinh tế như nhân dân các vùng xung quanh biết sử dụng công cụ bằng sắt, và dùng sức kéo của trâu bò. Biết trồng lúa một năm hai vụ, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp

9. Nêu những thành tựu về văn hoá của Cham-pa.

Trả lời :

Về văn hoá, Champa đạt được nhiều thành tựu độc đáo :

- Chữ viết : sáng tạo ra chữ viết dựa trên cơ sở sáng tạo chữ Phạn

- Tôn giáo : Theo đạo Bà La Môn và Đạo Phật. Có tục hoả táng người chết, lấy xương bỏ vào bình, ném xuống biển.

- Ở nhà sàn, thói quen ăn trầu

Về nghệ thuật : Phát triển cao đặc biệt là nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc như tháp Chăm, khu thánh địa Mĩ Sơn,...

10. So với những thành tựu kinh tế và văn hoá của người Việt, em thấy thành tựu văn hoá, kinh tế của người Chăm có điểm gì giống và khác nhau ?

Trả lời :

* Giống :

- Kinh tế :

  + Nông nghiệp trồng lúa nước, 1 năm 2 vụ

  + Biết sử dụng công cụ sắt và sức kéo của trâu bò

- Văn hoá :

  + Có thói quen ăn trầu

* Khác :

- Kinh tế :

  + Làm ruộng bậc thang

  + Sáng tạo ra xe guồng nước, đưa nước tưới ruộng

- Văn hoá :

  + Có tục hoả táng người chết

  + Theo đạo Bà La Môn

11. Qua hình tháp Chăm, em thấy kiến trúc Chăm có nét gì đặc sắc ?

Trả lời :

- Về quy mô tháp Chăm nhỏ hơn nhiều tháp Ấn Độ, gọn và đơn giản hơn tháp Campuchia

- Chịu ảnh hưởng của kiến trúc đền tháp Ấn Độ nhưng kiến trúc tháp Chăm được tranh trí nhiều tầng tỉ mỉ

- Tháp Chăm theo quan niệm nghệ thuật tôn giáo thể hiện hình núi Mênu - đỉnh núi là nơi ngự trị của thần thánh, có ý nghĩa tôn giáo sâu sắc.

12. Em hãy cho biết thành tựu văn hoá quan trọng nhất của người Chăm là gì ?

Trả lời :

Thành tựu văn hoá đặc sắc nhất của Cham-pa là nghệ thuật với các công trình như tháp Chăm và Thánh địa Mĩ Sơn. Các công trình này thể hiện đỉnh cao của nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của người Chăm, thể hiện sự lao động cần cù, sáng tạo của nhân dân Champa. Những công trình này đã được công nhận là di sản văn hoá thế giới.

13. Em hãy nêu mối quan hệ giữa người Chăm và người Việt ?

Trả lời :

- Từ  xưa người Chăm và người Việt đều bị bọn đô hộ phương Bắc thống trị - nên đã từng cùng nhau nổi dậy đấu tranh

- Khi nhân dân Tượng Lâm nổi dậy giành độc lập thì nhân dân Cửu Chân, Giao Chỉ cũng hưởng ứng, ngăn cản quân xâm lược Hán tiến vào đàn áp, tạo điều kiện thuận lợi cho thắng lợi của người Chăm.

- Ngày nay, người Chăm là một bộ phận dân cư trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam

14. Em hãy giới thiệu vài nét về Khu thánh địa Mĩ Sơn [Quảng Nam] ?

Trả lời :

- Khu thánh địa Mĩ Sơn nằm tại thung lũng Mĩ Sơn thuộc An Hoà, huyện Duy Xuyên, cách thành phố Đà Nẵng 70 km về phía tây nam.

- Với khoảng 70 công trình kiến trục được xây dựng từ thế kỉ VII đến thế kỉ VIII, Mĩ Sơn là thánh địa Ấn Độ giáo quan trọng nhất của vương quốc Cham-pa. Phần lớn các đền thờ chính ở Mĩ Sơn được xây dựng để thờ thần Si-va những dưới các tên gọi khác nhau...Phần lớn các đền thờ ở Mĩ Sơn được xây dựng trong các thế kỉ X, XI

- Mĩ Sơn còn nổi tiếng bởi hàng trăm tác phẩm điêu khắc vô giá, có niên đại từ thế kỉ thứ VII đến thế kỉ XIII. Nghệ thuật điêu khắc Champa là sự kết hợp những yếu tố bản địa với các nền văn hoá bên ngoài một cách chọn lọc và sáng tạo. Các tác phẩm điêu khắc được thể hiện trên đá rất sống động và có hồn. Mỗi phong cách nghệ thuật có một vẻ đẹp riêng cho dù mỗi thời kì tư duy thẩm mĩ mỗi khác.

15. Em hãy giới thiệu đôi nét về tháp Chăm [Phan Rang] ? 

Trả lời :

- Tháp Chăm là những đền miếu cổ - kiến trúc tôn giao tín ngưỡng của riêng dân tộc Chăm ở miền Nam Trung Bộ Việt Nam ngày nay. Quần thể tháp Chăm [hình 53, trang 69 SGK] là ở Phan Rang. Kiến trúc tháp Chăm là những sản phẩm vật chất kết tinh của nền văn hoá Champa với truyền thống nghệ thuật dân gian rất đặc sắc của dân tộc Chăm, cùng với việc tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá người Việt và nghệ thuật tôn giáo Ấn Độ.

- Các tháp Chăm là những công trình thờ thần nông nghiệp, thần thuỷ lợi, thần sấm chớp, thần sông, thần núi,... và còn cả tục thờ "Lin-ga" để cầu mong sự sinh sôi nảy nở của giống nòi, dân tộc.

- Tháp Chăm [gọi là ka-lan] là một khối kiến trúc xây dựng bằng gạch nung mầu đỏ sẫm làm từ đất địa phương, phía trên mở rộng và thon vút hình búp hoa. Vị trị đặt các tháp được chọn ở trên triền dốc của những quả đồi và chế ngự một phong cảnh thiên nhiên nhất định, kiến trúc tháp tuy không quy mô, kích thước không thật đồ sộ song vẫn hùng vĩ và có tính hoành tráng gợi lên không khí rất trang nghiêm.

- Mặt bằng của tháp đa số là hình vuông, số ít là hình chữ nhật, có không gian bên trong trật hẹp và thường chỉ có một cửa ra vào duy nhất mở về hướng đông - hướng Mặt Trời mọc

- Trần tháp cấu tạo vòm cuốn và nội thất không có trang trí mặt tường. Trong lòng tháp đặt một kệ thờ bằng đá. Tất cả tài năng và trí tuệ của con người thể hiện ở việc tạo hình nghệ thuật ngoài, tạo khối kiến trúc hình tháp đẹp và phong phú, tập trung tô điểm, chạm khắc, đẽo gọt công phụ những hình hoa lá, chim muông, vũ nữ, thần thánh,... độc đáo và mang đậm tính cách, tâm hồn của người Chăm.

Video liên quan

Chủ Đề