Một trong những phẩm chất đạo đức của quân nhân là gì

1. Phẩm chất đạo đức là gì?

Phẩm chất đạo đức là những chuẩn mực hành vi làm nên giá trị của một con người. Dựa vào khung chuẩn mực ấy, người ta có thể đánh giá các hành vi của con người tốt hay xấu, lợi hay hại, về những điều được khuyến khích, cấm kị, hoặc về nghĩa vụ của mỗi con người.

2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con Người Việt Nam mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh:

Về những phẩm chất đạo đức của người Việt Nam, quan điểm đạo đức của Hồ Chí Minh đã bao quát những mối quan hệ cơ bản của con người trong xã hội gồm:

Một là, với đất nước, dân tộc phải: “Trung với nước, hiếu với dân”.

Hai là, với mọi người phải: “Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình”.

Xem thêm: Phân tích những nguyên tắc xây dựng và tổ chức của Đảng Cộng Sản Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Ba là, với mình phải thực sự: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.

Bốn là, mở rộng quan hệ yêu thương con người đối với toàn nhân loại, người cách mạng phải có “Tinh thần quốc tế trong sáng”.

Đó là bốn phẩm chất chung cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới.

3. Phân tích những phẩm chất đạo đức cơ bản của người Việt Nam mới:

Trung với nước, hiều với dân

Về phẩm chất đạo đức thì trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức cơ bản nhất, quan trọng nhất, bao trùm nhất.

Trung, hiếu là những khái nhiệm đã có trong tư tuởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông đã được Hồ Chí Minh sử dụng và đưa vào nội dung mới. Trước kia trung là trung quân, là trung thành với vua; trung thành với vua cũng có nghĩa là trung thành với nước vì vua với nước là một, vua là nước, nước là nước của vua. Còn hiếu thì chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình, là con cái phải hiếu thảo với cha mẹ.

Tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của Hồ Chí Minh không những kế thừa giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc mà còn vượt qua những hạn chế của truyền thống đó.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung chủ yếu của Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước ở đây là nước của dân, còn dân lại là chủ nhân đất nước. Khi Hồ Chí Minh đặt vấn đề “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, Đảng và Chính phủ là “đày tớ nhân dân” chứ không phải “quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân dân”; thì quan niệm về nước và dân đã hoàn toàn đảo lộn so với trước. Có thể nói rất ít lãnh tụ cách mạng đã nói về dân như vậy. Cụ thể hơn, Trung với nước là:

Xem thêm: Phân tích những quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc

Trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội, phải biết đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước hết.

Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu cách mạng.

Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Còn Hiếu với dân, có nghĩa là không chỉ hiếu thảo với cha mẹ mình, mà còn phải hiếu thảo với cha mẹ của người khác, hiếu thảo với nhân dân, gắn bó với nhân dân; bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, bao nhiêu lợi ich đều là vì dân, bao nhiêu lực lượng đều là ở dân….Người khẳng định : nước lấy dân làm gốc, gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân. Tư tưởng Hiếu với dân không còn dừng lại ở chỗ thương dân với tính chất là đối tượng cần phải dạy dỗ, ban ơn, mà là đối tượng phải phục vụ hết lòng. Vì vậy phải gần dân, gắn bó với nhân dân, kính trọng và học tập nhân dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc. Theo Hồ Chí Minh lãnh đạo phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, lại phải thường xuyên quan tâm đến việc cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để nhân dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người làm chủ đất nước, quyền thì hưởng, còn trách nhiệm thì phải làm tròn. Có được cái đức ấy thì người cách mạng, người lãnh đạo sẽ được dân tin yêu, quý mến, kính trọng, nhất định sẽ tạo được sức mạnh to lớn cho cách mạng.

Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị – đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt mà còn lâu dài về sau.

Yêu thương con người

Đây là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Phẩm chất đó là sự kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghiã nhân đạo cộng sản, tinh thần nhân văn của nhân loại, cùng với sự thể nghiệm của Hồ Chí Minh qua hoạt động cách mạng thực tiễn. Nói về tình yêu thương con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần phân tích ở những luận điểm sau:

Tình yêu thương là một tình cảm rộng lớn, trước hết dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột, không phân biệt màu da, dân tộc,…Tình yêu thương đó đã được thể hiện ở Hồ Chí Minh bằng một ham muốn tột bậc là làm cho nước được độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Nếu không có tình yêu thương con người như vậy thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Xem thêm: Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì? Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh?

Xuất phát điểm từ tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh vừa sâu xa, vừa rất cụ thể và gần gũi. Tình yêu ấy còn được thể hiện trong các mối quan hệ bạn bè, đồng chí với mọi người bình thường trong quan hệ hàng ngày. Nó đòi hỏi mọi nguời phải luôn chặt chẽ nghiêm khắc với mình, rộng rãi, độ lượng với người khác. Nó đòi hỏi thái độ tôn trọng con người, phải biết nâng người khác lên, chứ không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con người.

Tình yêu thương con người theo Hồ Chí Minh còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm nhưng đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, kể cả đối với những người lầm đường lạc lối đã hối cải, kể cả đối với những kẻ thù đã bị thương, bị bắt hoặc đã chịu quy hàng. Chính tình yêu đó đã đánh thức những gì tốt đẹp mà Hồ Chí Minh tin rằng trong mỗi người đều có.

Nhưng điểm nổi bật nhất trong tình thương yêu con người của Hồ Chí Minh đó là thương yêu nhân dân. Người quan tâm tới mọi đối tượng từ các cụ già, bộ đội, phụ nữ, thanh niên, đến các cháu thiếu niên nhi đồng,..

Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, sống cao đẹp hơn. Tuy nhiên, những tình yêu thương đó phải được dựa trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình một cách chân thành và nghiêm túc. Nó hoàn toàn xa lạ với thái độ dĩ hòa vi quý, bao che sao lầm, khuyết điểm cho nhau, càng xa lạ với thái độ “yêu nên tốt, ghét nên xấu”, bè cánh của bộ phận thoái hóa, biến chất có thể đưa đến những tổn thất cho Đảng, cho cách mạng.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là mối quan hệ “với tự mình”. Đây là nét đặc trưng của đạo đức cách mạng theo quan điểm của Người, một phẩm chất đạo đức trung tâm, gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cũng là những khái niệm đạo đức truyền thống được Hồ Chí Minh cải biến, đưa vào những nội dung và yêu cầu mới. Các phạm trù đạo đức đó đã được Hồ Chí Minh giải thích rất rõ rất cụ thể và dễ hiểu với mọi người.

Cần là lao động cần cù, siêng năng, có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”

Xem thêm: Phân tích giá trị và ý nghĩa của việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh

Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân mình, từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức…”

Liêm là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”; “không xâm phạm một đồng xu, một hạt thóc của Nhà nước của nhân dân”. Phải “trong sạch, không tham lam”. “Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”. Người đã chỉ ra những hành vi trái với chữ liêm như: cậy quyền thế, dìm người giỏi, sợ khó nhọc, không dám đánh…

Chính nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn.

Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.

Đối với người: không nịnh nọt người trên, không xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà; không dối trá lừa lọc.

Đối với việc: để công việc lên trên việc nhà. Đã phụ trách công việc gì thì quyết làm cho kì được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó khăn nguy hiểm, việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh.

Chí công vô tư là đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc, phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, khi làm bất cứ việc gì cũng phải nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau. Đối lập với chí công vô tư là “dĩ công vô tư”, đó là điều mà đạo đức mới đòi hỏi phải chống lại.

Nhận xét:

Xem thêm: Phân tích quan điểm sáng tạo về cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau. Có khi, Người coi cần, kiệm như hai chân của con người phải đi đôi với nhau: Cần mà không kiệm thì chẳng khác nào “gió vào nhà trống”, “nước đổ vào chiếc thùng không đáy”, “làm chừng nào, xào chừng đấy”, rốt cuộc “không lại hoàn không. Còn kiệm mà không cần thì sản xuất được ít, không đủ dùng, không có tăng thêm, không có phát triển. Có khi Người coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức chủ yếu của một con người, nhất là đối với cán bộ Đảng viên. Nó có quan hệ mật thiết với nhau như bốn mùa của trời, như bốn phương của đất, thiếu một mùa thì không thành trời, thiếu một phương thì không thành đất, thiếu một đức thì không thành người.

Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư: ngược lại đã chí công vô tư, một lòng vì nước vì dân thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính và có được nhiều đức tính tốt khác.

Bồi dưỡng phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư sẽ làm con người ta vững vàng trước mọi thử thách “giàu sang không thể quyến rũ; nghèo khó không thể chuyển lay; uy vũ không thể khuất phục”. Nhưng đây lại la vấn đề phức tạp, nói dễ làm khó. Bởi vì nó đụng chạm đến nhiều mặt lợi ích cá nhân, tập trung nhất vào chức, quyền, danh, lợi mà nếu không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân thì bất cứ ai cũng có thể sa vào những hành vi vô đạo đức.

Tinh thần quốc tế trong sáng

Đây là phẩm chất đạo đức, là yêu cầu đạo đức nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gia dân tộc.

Đó là tinh thần “tứ hải giai huynh đệ” mà Người đã tiếp thu được của Nho giáo và đã cải biến bằng mệnh đề “bốn phương vô sản đều là anh em”

Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, với những người tiến bộ, yêu chuộng hòa bình công lí trên thế giới nhằm mục tiêu lớn của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước các dân tộc.

Theo Hồ Chí Minh, tinh thần quốc tế trong sáng là tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, nó hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa Sô vanh hay chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Và sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản chính là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghiã quốc tế trong sáng.

Tinh thần quốc tế trong sáng là một phẩm chất đạo đức, là yêu cầu đạo đức nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ của quốc gia dân tộc. Không phải bất cứ ai, bất cứ lúc nào cũng nhận thấy tinh thần đó, nhưng việc giáo dục của Đảng và việc rèn luyện của cá nhân mỗi người về tinh thần quốc tế lại không thể coi nhẹ. Nếu coi nhẹ tinh thần quốc tế sẽ dẫn đến đổ vỡ quốc gia dân tộc, liên bang, phá vỡ tình đoàn kết quốc tế, thậm chí đưa đến tình trạng đối địch, đối đầu.

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế trong sáng là sự mở rộng quan hệ đạo đức giữa người với nguời và với toàn nhân loại vì Người không chỉ là “người Việt Nam nhất” như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định mà còn là “nhà văn hóa lớn của thế giới”, “chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế”.

Nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh

[ĐCSVN] - Hiện nay, việc bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ quân đội là vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam.

Trong tình hình hiện nay, việc quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức người cán bộ quân đội vào giáo dục, rèn luyện và đặt ra những yêu cầu mới về chuẩn mực phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ quân đội là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Và, đó cũng là việc làm thiết thực, hữu ích để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay".

Theotư tưởng Hồ Chí Minh, phẩm chất đạo đức của người cán bộ quân đội vừa phản ánh những yêu cầu chung của nhiệm vụ cách mạng, vừa phản ánh đặc điểm, yêu cầu riêng của quân đội. Đạo đức cách mạng của người cán bộ quân đội không phải là cái gì trừu tượng, cao xa mà được thể hiện rất cụ thể trong ba mối quan hệ cơ bản: đối với người, đối với việc, đối với tự mình và được khái quát thành các đặc trưng tiêu biểu đó là:

Trung với nước, Trung với Đảng, Hiếu với dân. Đây là biểu hiện cao nhất ý thức đạo đức người cán bộ quân đội, định hướng cho mọi hoạt động thực tiễn của họ. Tư tưởng: Trung- Hiếu ở đây đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển lên tầm cao mới. Người nói: “Ngày xưa Trung là trung với vua, Hiếu là hiếu với cha mẹ mình thôi”; còn ngày nay, “Trung là trung với Tổ quốc, Hiếu là hiếu với nhân dân” [1]. Với quan niệm đó, Hồ Chí Minh đã chuyển hoá từ đạo đức tu thân của Nho giáo sang đạo đức cách mạng, khẳng định thái độ trách nhiệm chính trị và nghĩa vụ đạo đức của mỗi người dân đối với vận mệnh đất nước, với hạnh phúc của nhân dân. Người chỉ rõ yêu cầu của “Trung” là: “Trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với nhân dân, với cách mạng, với Đảng” [2]. Lòng trung thành đó được bắt nguồn từ tình yêu, quê hương, đất nước, niềm tự hào dân tộc; từ đó người quân nhân cách mạng nguyện hiến dâng cả tuổi thanh xuân cho nền độc lập, tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Trung với nước đối với người cán bộ quân đội luôn gắn liền với Trung với Đảng, Hiếu với dân. Bởi vì, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, lãnh đạo đất nước nên "Trung với nước” trước hết và tập trung nhất phải là “Trung với Đảng”. Mặt khác, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, nước với dân hoà làm một. Nước là của dân và dân là chủ nhân của nước. Do đó, Trung với nước không tách rời Hiếu với dân. Người nói: “Nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội. Cán bộ phải dạy cho đội viên biết kính trọng dân, thương yêu dân, giúp đỡ dân” [3]. Trung với nước, Trung với Đảng, Hiếu với dân trở thành phẩm chất đạo đức hàng đầu định hướng hoạt động cách mạng của mỗi cán bộ, chiến sỹ. Đó là cơ sở tạo thành niềm tin vững chắc và sức mạnh to lớn để người cán bộ quân đội luôn hoàn thành chức trách, nhiệm vụ Đảng, Nhà nước giao.

Xây dựng quânđội chính quy hiệnđại.[Ảnh theo Báo Quânđội Nhân dân]

Quán triệt tư tưởng đó của Người, trong tình hình hiện nay, Trung với nước, Hiếu với dân đòi hỏi người cán bộ quân đội phải được thể hiện ở bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng với sự nghiệp cách mạng của Đảng, tin tưởng tuyệt đối vào công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước do Đảng lãnh đạo. Luôn giữ vững lập trường giai cấp công nhân, lợi ích dân tộc, củng cố thế giới quan và phương pháp luận duy vật, có quyết tâm và ý chí cao vượt qua khó khăn thử thách để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hoà bình” và mặt trái cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế đòi hỏi cán bộ quân đội phải nêu cao cảnh giác cách mạng, tự “miễn dịch trước các tác động tiêu cực; trong mọi điều kiện, hoàn cảnh và tình huống khó khăn đều quyết tâm hoàn thành chức trách, nhiệm vụ. Mặt khác, hiện nay lòng trung thành của người cán bộ quân đội phải được thể hiện thông qua hiệu quả của việc chỉ huy đơn vị, quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, thực hiện nhiệm vụ quân đội nhằm nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho cán bộ, chiến sỹ trong đơn vị, xây dựng niềm tin tuyệt đối vào sự nghiệp cách mạng. Đồng thời, phải luôn phấn đấu vươn lên vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không mơ hồ, mất cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù. Hơn nữa, sự trung thành với Đảng của người cán bộ quân đội hiện nay phải được chuyển hoá thành bản lĩnh chính trị, đạo đức vững vàng, thành thói quen hành vi đạo đức mang tính ổn định ở mỗi người cán bộ cụ thể. Trung thành nhưng phải có bản lĩnh, có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, chứ không thụ động, bảo thủ trì trệ, né tránh khó khăn, gian khổ. Trung thành nhưng không phải là “gọi dạ, bảo vâng”, cơ hội, không có chủ kiến, không có tài năng, không dám đấu tranh, xu nịnh, tuỳ thời, dối trên, lừa dưới vì mục đích quyền lực và tiền tài. Mà sự trung thành đó phải được thể hiện ở thái độ, hành vi và hành động nhằm thực hiện động cơ, lý tưởng cách mạng mang lại lợi ích cho dân, cho nước. Mỗi cán bộ quân đội phải thực hiện đúng lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Gặp cái gì dễ mà không quyết tâm phát triển thì nó có thể sẽ biến thành cái khó, gặp cái khó mà biết quyết tâm khắc phục cũng sẽ thành cái dễ..” [4]. Quyết tâm cao phải gắn liền với phát huy trách nhiệm, thực hiện tinh thần chấp hành vô điều kiện chị thị, mệnh lệnh cấp trên, đi sát quần chúng, có tinh thần cảnh giác cách mạng, tìm mọi biện pháp làm thất bại âm mưu thủ đoạn của địch. Không vì điều kiện thời bình mà mơ hồ ảo tượng, tích cực đấu tranh với những nhận thức lệch lạc trái với các quan điểm, đường lối của Đảng. Trong tình hình hiện nay, Hiếu với dân đòi hỏi đội ngũ cán bộ quân phải luôn đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhân dân “quân với dân như cá với nước”; phải tôn trọng nhân dân, học tập dân, bảo vệ dân, giúp đỡ dân, cùng với nhân dân quyết tâm giữ vững toàn vẹn non sông bờ cõi và xây dựng đất nước ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như Hồ Chí Minh hằng mong muốn.

Tinh thần đoàn kết, thương yêu chiến sỹ, đồng đội, gắn bó với quần chúng, có ý thức kỷ luật cao. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối với quân đội cách mạng, đoàn kết là cơ sở tạo nên sức mạnh vô địch. Người căn dặn: “Đoàn kết là sức mạnh nhất của ta. Phải đoàn kết nội bộ, giữa cán bộ và chiến sỹ” [5]. Người thường nhắc nhở: “Các chú cần phải đoàn kết hơn nữa, đoàn kết chặt chẽ giữa chiến sỹ với nhau, giữa cán bộ với nhau, giữa chiến sỹ và cán bộ, giữa quân và dân. Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi. Nói tóm lại: giữ vững và phát triển đạo đức cách mạng của quân đội nhân dân” [6]. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn theo sát, nắm vững và căn dặn riêng từng đối tượng cán bộ: “Người đội trưởng, người chính trị viên phải là người anh, người chị, người bạn của đội viên” [7]. Bên cạnh việc bồi dưỡng, giáo dục cho người cán bộ quân đội phải luôn đoàn kết, thương yêu chiến sỹ. Người còn chú trọng giáo dục tính kỷ luật, coi đó là khâu trọng yếu đối với mỗi cán bộ quân đội. Theo Hồ Chí Minh: Tính kỷ luật của người cán bộ quân đội phải được thể hiện ở sự tự giác chấp hành, tuân thủ mọi yêu cầu điều lệnh, điều lệ quân đội, pháp luật Nhà nước, mọi hành vi hoạt động quân sự phải nhất quán, chấp hành tuyệt đối chị thị, mệnh lệnh, nhiệm vụ cấp trên giao, trong bất kỳ tình huống, hoàn cảnh nào cũng phải giữ nghiêm kỷ luật quân sự.

Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, hiện nay hơn lúc nào hết, đội ngũ cán bộ ở từng đơn vị quân đội phải tăng cường đoàn kết chặt chẽ, thực hiện tốt dân chủ, cộng đồng trách nhiệm, chung sức đồng lòng xây dựng tập thể lãnh đạo vững mạnh toàn diện. Mỗi người cán bộ quân đội phải luôn giữ gìn và phát huy tốt mối quan hệ đoàn kết cán binh, đoàn kết nội bộ, luôn mẫu mực, tận tâm, trách nhiệm, chan hoà với cấp dưới, thực hiện “miệng nói tay làm”, tổ chức, hướng dẫn cho bộ đội thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Đẩy mạnh phê bình và tự phê bình, thống nhất cao về ý chí và hành động trong toàn đơn vị; cán bộ phải thương yêu chiến sỹ, đồng chí, đồng đội, tận tâm, trách nhiệm giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Luôn quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho mọi chiến sỹ trong đơn vị. Khắc phục tình trạng xa lánh, khinh miệt, đối xử gia trưởng với chiến sỹ. Cán bộ chỉ huy ở đơn vị phải là tấm gương mẫu mực về đạo đức, lối sống về ý thức tổ chức kỷ luật, trở thành tấm gương cho chiến sỹ noi theo. Trong điều kiện lịch sử có bước phát triển mới, nhiệm vụ của quân đội ngày càng nặng nề hơn, vì vậy đòi hỏi đội ngũ cán bộ quân đội cần nêu cao hơn nữa ý thức chấp hành kỷ luật. Tự giác chấp hành kỷ luật của đội ngũ cán bộ quân đội hiện nay phải được biểu hiện cụ thể trong cuộc sống và hoạt động quản lý, chỉ huy đơn vị. Tự giác chấp hành kỷ luật của người cán bộ quân đội hiện nay phải coi là sự thực hiện vô điều kiện, triệt để và sáng tạo chức trách, nhiệm vụ được giao. Phải chấp hành nghiêm ngặt các quy định của điều lệnh, điều lệ, kỷ luật của quân đội; đồng thời phải luôn có sự phối hợp chặt chẽ với các cấp trong thực hiện nhiệm vụ. Mặt khác, tính tự giác chấp hành kỷ luật của người cán bộ quân đội hiện nay phải được thể hiện ở sự vững vàng về bản lĩnh chính trị, tính độc lập, tự chủ, hiệp đồng chặt chẽ chính xác trong mọi hoạt động quản lý, chỉ huy đơn vị. Điều đó, đòi hỏi mỗi cán bộ quân đội phải coi việc chấp hành kỷ luật tự giác trở thành phong cách của nếp sống văn hoá, một nét đẹp của nhân cách người cán bộ quân đội hiện nay.

Đạo đức người cán bộ quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở đức tính: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư theo Hồ Chí Minh là phẩm chất nền tảng của đạo đức cách mạng mà mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ trong quân đội nói riêng phải luôn quán triệt, thực hiện. Nó phản ánh mối quan hệ “tự mình đối với mình”, tức là tự lấy chính bản thân mình làm đối tượng để tu dưỡng, rèn luyện trong hoạt động hàng ngày đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn đạo đức người cán bộ của Đảng, của quân đội. Với cán bộ quân đội, Người thường nhắc nhở: “Muốn giữ vững nhân cách tránh khỏi hủ hoá, thì phải luôn thực hành bốn chữ mà Bác thường nói, đó là: Cần, kiệm, liêm, chính” [8]. “Cần, kiệm, liêm, chính của ta là đạo đức của người quân nhân cách mạng. Các chú phải thực hành điều đó” [9]. Theo Hồ Chí Minh: “Chỉ khi mà người cán bộ quân đội tích cực giáo dục, tuyên truyền, hướng dẫn bộ đội cũng thực hiện như mình, như vậy mới là cần, kiệm, liêm, chính hoàn toàn” [10]. Người nói, với quân đội phải siêng tập, siêng đánh cho nên phải cần. Binh sỹ phải tiết kiệm đạn dược, mỗi viên đạn, một quân thù, nên phải kiệm. Mỗi người đều phải trong sạch, không tham lam, không đem của công dùng vào việc tư, cho nên phải liêm. Với cán bộ cung cấp hậu cần, Bác căn dặn; “cán bộ cung cấp phải làm kiểu mẫu cần, kiệm, liêm, chính” [11]. Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin vào quân đội và Người đã nêu một yêu cầu rất cao: “Phải làm sao cho trong quân đội ta không có tham ô, lãng phí” [12]. Người luôn yêu cầu cán bộ quân đội phải rèn luyện toàn diện các phẩm chất đạo đức trong nhân cách người cán bộ quân đội, đó là: Trí- Tín- Nhân - Dũng- Liêm- Trung. Trong đó, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tới hai phẩm chất đặc sắc nhất đó là trí và dũng. Đây là những phẩm chất quan trọng, đặc biệt cần thiết trong hoạt động quân sự, giúp cho người cán bộ quân đội khi cầm quân đủ sáng suốt, bình tĩnh, quyết đoán xử trí các tình huống chiến đấu kịp thời, chính xác.

Thực hiện đúng tư tưởng đó của Hồ Chí Minh, trong xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại ngày nay đòi hỏi cán bộ quân đội phải thật sự thấm nhuần lời dạy cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư của Người. Mỗi cán bộ quân đội phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức nhân cách của mình; yên tâm công tác, yêu quý công việc, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Hiện nay, đội ngũ cán bộ quân đội phải tích cực học tập nâng cao trình độ cả về phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong thời kỳ mới. Người cán bộ quân đội hiện nay không chỉ thành thục chiến thuật, thao tác kỹ thuật mà phải có kiến thức sâu rộng về mọi mặt, có kinh nghiệm trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; có đủ trình độ hiểu biết để tổ chức, hướng dẫn hành động cấp dưới và giải đáp được mọi vấn đề trong cuộc sống mà chiến sỹ vướng mắc. Luôn phát huy tốt tinh thần trách nhiệm trong công tác, toàn tâm, toàn ý với đơn vị, chủ động, sáng tạo, khắc phục khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ trong mọi điều kiện. Mỗi cán bộ quân đội phải luôn có ý thức và thực hành tiết kiệm công sức, của cải, tài sản của đơn vị, giữ tốt dùng bền, an toàn tiết kiệm, khắc phục quan niệm “nước sông công lính”, lãng phí tiền bạc của tập thể, công sức của bộ đội. Trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt là sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường càng đòi hỏi đội ngũ cán bộ quân đội phải luôn lấy lợi ích của tập thể, của đơn vị mình làm mục tiêu để hành động, sắn sàng đặt lợi ích của đơn vị lên trên và lên trước lợi ích của cá nhân mình. Phải có thái độ khách quan, dám nói thẳng, nói thật, đấu tranh chống lại cái sai, lạc hậu, bảo vệ cái đúng, cái tiến bộ. Kiên quyết loại bỏ các cán bộ tham ô, lãng phí của cải, tài sản của quân đội, thiếu trung thực, hiệu quả công tác thấp, chỉ vun vén thu lợi cá nhân làm ảnh hưởng xấu đến uy tín danh dự người sĩ quan quân đội cách mạng.

Đạo đức của người cán bộ quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở tinh thần quốc tế vô sản cao cả, trong sáng, thuỷ chung. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên chú ý giáo dục, hướng dẫn nhân dân, nhất là cán bộ chiến sỹ quân đội thực hiện tốt nhiệm vụ quốc tế năng nề và vẻ vang trong sự nghiệp cách mạng. Những tư tưởng sâu sắc về tinh thần quốc tế vô sản vô tư, trong sáng của Người đã trở thành giá trị, chuẩn mực đạo đức cách mạng để cán bộ, chiến sỹ trong quân đội luôn ghi nhớ thực hiện. Theo Hồ Chí Minh: “Giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình” [13]. Lời căn dặn đó của Người là tư tưởng sâu sắc có giá trị đạo đức mẫu mực trở thành phương châm hành động của mỗi người cách mạng. Người còn luôn nhắc nhở cán bộ, chiến sỹ quân đội phải luôn biết ơn sự giúp đỡ quốc tế lớn lao của nhân dân, chính phủ và quân đội các nước anh em đã cùng sát cánh chiến đấu với quân đội ta trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tinh thần quốc tế vô sản cao cả, nhiều cán bộ, chiến sỹ tình nguyện Việt Nam đã không quản ngại hy sinh, gian khổ, vượt mọi khó khăn, tham gia chiến đấu công tác nhiều năm liền trên các chiến trường Lào và Campuchia, viết nên những trang sử truyền thống sáng ngời về đạo đức cách mạng của người cán bộ, chiến sỹ quân đội nhân dân Việt Nam. Trong đó, đội ngũ cán bộ quân đội là những người luôn đi tiên phong trong thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao đẹp đó.

Hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về tinh thần quốc tế vô sản cao cả trong sáng thuỷ chung vẫn là phương châm, phương hướng trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tinh thần yêu nước chân chính với tinh thần quốc tế vô sản cao cả, giúp bạn là tự giúp mình là phẩm chất đạo đức, truyền thống tốt đẹp của quân đội ta. Trong tình hình hiện nay, cán bộ Quân đội nhân dân Việt Nam cần kề vai sát cánh cùng với quân đội và nhân dân các nước anh em duy trì vùng biên giới hoà bình, ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nuớc; kiên quyết đấu tranh ngăn chặn kịp thời mọi hoạt động thâm nhập phá hoại, gây chia rẽ tình đoàn kết, hữu nghị giữa các nước, giữa các dân tộc anh em đang cùng nhau chung sống hoà bình trên vùng biên giới. Tăng cường mối quan hệ truyền thống với quân đội và nhân dân các nuớc xã hội chủ nghĩa anh em trên tinh thần hiểu biết lẫn nhau, chân thành, học hỏi kinh nghiệm xây dựng quân đội, tăng cường sức mạnh quân sự bảo vệ Tổ quốc. Trong tình hình mới, đội ngũ cán bộ quân đội phải thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức cho mọi chiến sỹ về tinh thần quốc tế vô sản. Mặt khác, những cán bộ được cử đi công tác, học tập, nghiên cứu, giúp đỡ quân đội các nước anh em phải luôn tôn trọng pháp luật, tập quán các nước, thực sự cầu thị, thực hành đúng các quy tắc, chuẩn mực trong quan hệ quốc tế. Tích cực đấu tranh trên mặt trận tư tưởng lý luận vạch trần âm mưu, bản chất phản động của các tư tưởng xấu độc tác động từ bên ngoài vào đất nước và môi trường quân đội./.


[1] Hồ Chí Minh, toàn tập, NXBCTQG, H.1995, tập 5, tr 640. [2] Sđd, tập 5, tr 480. [3] Sđd, tập 6, tr 320. [4] Sđd, NXBST, H.1986, tập 6, tr 308. [5] Sđd, NXBCTQG, H.1996, tập 8, tr 306. [6] Sđd, tập 7, tr 396-397. [7] Sđd, NXBCTQG, H.1995, tập 6, tr 109. [8] Sđd, NXBCTQG, H.1996 tập 7, tr 347. [9] [10] Sđd, NXBCTQG, H.1995, tập 6, tr 321. [11] Sđd, tập 6, tr 296. [12] Sđd, NXBCTQG, H.1996, tập 8, tr 430. [13] Sđd, tập 7, tr 64.

Một số hình ảnh

NHẬN THỨC VỀ GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC QUÂN NHÂNCỦA HỌC VIÊN SĨ QUAN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

ThS. THÂN TRUNG DŨNG

Học viện Hậu cần – Bộ Quốc Phòng

Nhận thức về giá trị đạo đức quân nhân là một nội dung hết sức quan trọng trong quá trình giáo dục, rèn luyện học viên sĩ quan ở các học viện, nhà trường quân đội. Nhận thức tốt về những giá trị đạo đức quân nhân sẽ là cơ sở quan trọng cho học viên hình thành thái độ tốt và những hành động tích cực chiếm lĩnh giá trị chuẩn mực đạo đức quân. Dựa trên dữ liệu khảo sát 800 học viên tại: Trường Sĩ quan Chính trị; Trường sĩ Quan lục quân 1, Học viện Kỹ thuật Quân sự và Học viện Hậu cần thuộc luận án tiến sĩ chuyên ngành xã hội học “Định hướng giá trị nghề nghiệp của học viên sĩ quan trong các học viện, nhà trường quân đội khu vực phía Bắc hiện nay” do tác giả thực hiện năm 2015, bài viết tập trung phân tích giá trị đạo đức quân nhân của học viên sĩ quan trong các học viện, nhà trường quân đội hiện nay.

  1. Khái niệm giá trị đạo đức quân nhân

“Giá trị đạo đức là cái được con người lựa chọn và đánh giá, xem nó như là việc làm có ý nghĩa tích cực đối với đời sống xã hội, được lương tâm đồng tình và dư luận biểu dương” [3]. Theo đó, giá trị đạo đức quân nhân là sự thừa nhận, đánh giá của cá nhân và xã hội đối với nghề nghiệp quân sự, là cơ sở để cá nhân lựa chọn những giá trị phù hợp với bản thân và đáp ứng yêu cầu của quân đội. Nói cách khác, giá trị đạo đức quân nhân của người học viên sĩ quan quân đội là những phẩm chất chuẩn mực đạo đức, chính trị, nghề nghiệp,… đặc trưng của người học viên sĩ quan quân đội, có khả năng thỏa mãn những nhu cầu liên quan đến hoạt động học tập, rèn luyện và công tác trong hoạt động quân sự chi phối họ trong việc lựa chọn mục đích, phương thức và phương tiện để tiến hành các hoạt động quân sự. Giá trị đạo đức quân nhân được thể hiện cụ thể trong hoạt động học tập, rèn luyện, trong hành vi ứng xử hàng ngày của người học viên. Những giá trị này đã được khẳng định một cách rõ ràng và chắc chắn thông qua hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc Việt Nam, đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Việc xác định hệ thống giá trị đạo đức quân nhân thuộc lĩnh vực hoạt động quân sự là việc làm có ý nghĩa quan trọng hàng đầu để tiến hành hoạt động rèn luyện, giáo dục giá trị chuẩn mực đạo đức quân nhân cho học viên sĩ quan trong các học viện, nhà trường quân đội hiện nay.

  1. Thực trạng nhận thức về những giá trị đạo đức quân nhân của học viên sĩ quan quân đội

Kết quả khảo sát xã hội học cho thấy, nhận thức của học viên sĩ quan về những giá trị đạo đức quân nhân được thể hiện ở những nội dung dưới đây.

Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Một là, trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân

Trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân không những là chuẩn mực, giá trị đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu mà còn là phẩm chất truyền thống tốt đẹp của quân đội Việt Nam. Trung với Đảng có nghĩa là phải trung thành với mọi đường lối, chủ trương, Nghị quyết của Đảng, sẵn sàng thực hiện tốt nhất với tinh thần sáng tạo các nghị quyết do Đảng đề ra, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, nhân dân giao cho, luôn bảo vệ Đảng, chống lại mọi xu hướng xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và quân đội. Hiếu với dân là phải hết lòng vì lợi ích của nhân dân, vì quyền dân chủ của dân, tôn trọng dân, thực hiện đầy đủ mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đem lại lợi ích ngày càng nhiều cho nhân dân, đặc biệt đối với nhân dân các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, các khu căn cứ cách mạng trước đây. Giá trị trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân được học viên lựa chọn nhiều với số điểm trung bình [ĐTB[1]] cao nhất: 4,8 điểm, xếp thứ nhất. Có sự khác biệt về ĐTB giữa hai nhóm học viên sĩ quan năm thứ hai và năm thứ tư [4,74 điểm so với 4,87 điểm] khi lựa chọn giá trị này. Điều này cho thấy, học viên năm thứ tư nhận thức rất sâu sắc về giá trị này – một giá trị mang ý nghĩa chính trị, tư tưởng cao thể hiện mục tiêu, lý tưởng của nghề nghiệp quân sự hơn học viên năm thứ hai. Kết quả này cũng phù hợp với quá trình nhận thức, học viên năm thứ tư có quá trình giáo dục, đào tạo dài hơn nên nhận thức của họ về chính trị, tư tưởng cao hơn học viên năm thứ hai. Những cuộc trao đổi trực tiếp với học viên giúp chúng tôi khẳng định rằng, “trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân” là giá trị luôn được học viên đề cao, coi trọng và cho là phẩm chất không thể thiếu của mỗi cán bộ, sĩ quan, chiến sĩ, học viên trong quân đội. Đây chính là cơ sở vững chắc cho học viên trong quá trình giáo dục, đào tạo giúp họ yên tâm, gắn bó với nghề, coi binh nghiệp là sự lựa chọn của cuộc đời, có ý thức xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện. Nó cũng chính là nguồn động lực tích cực thúc đẩy người học viên tích cực tìm tòi, khám phá tri thức khoa học, rèn luyện kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, sĩ quan trong giai đoạn mới.

Hai là, yêu Nhà nước xã hội chủ nghĩa

Yêu Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một giá trị chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quyết định xuyên suốt, gắn bó chặt chẽ với xây dựng quân đội về chính trị, là sự thể hiện việc quán triệt các nguyên tắc, quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, lý tưởng xã hội chủ nghĩa và Cộng sản chủ nghĩa vào xây dựng quân đội, xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ quân đội trong điều kiện hiện nay. Giá trị này được học viên lựa chọn với số ĐTB cao 4,69 điểm, xếp thứ hai. Kết quả này cho thấy rõ hơn những phẩm chất chính trị, tư tưởng được học viên nhận thức rất sâu sắc. Là lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng, của quân đội có nhiệm vụ bảo vệ Đảng, là lực lượng đi đầu, kiên định vững vàng trước mọi thử thách. Chuẩn mực đạo đức này đặt ra yêu cầu cao đối với cán bộ, sĩ quan, học viên quân đội về khả năng phát hiện những mâu thuẫn nảy sinh trong đời sống quân dân, trong nhận thức, tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền về mục tiêu, lý tưởng, nhiệm vụ, nghĩa vụ và quyền lợi; những quan niệm về cống hiến và hưởng thụ trong điều kiện nền kinh tế thị trường, mở cửa, giao lưu, hội nhập kinh tế quốc tế,… để kịp thời định hướng, giáo dục, rèn luyện bộ đội có hiệu quả đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ. Trước mỗi biến động phức tạp xảy ra, đòi hỏi ở người lãnh đạo, chỉ huy sự nhạy cảm, quyết đoán, đưa ra những quyết định chính xác nhằm động viên, khích lệ tinh thần cán bộ, chiến sĩ hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.

Ba là, tinh thần quốc tế vô sản cao cả

Tinh thần quốc tế vô sản cao cả là sự đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề “bốn phương vô sản đều là anh em”; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước mà Bác Hồ đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc. Giá trị này cũng được học viên lựa chọn với số ĐTB cao: 4,32 điểm, trong đó nhóm học viên năm thứ tư có ĐTB cao hơn nhóm học viên năm thứ hai: 4,35 điểm so với 4,28 điểm. Điều này cho thấy, học viên năm thứ tư có nhận thức về giá trị này cao hơn học viên năm thứ hai. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân đội ta luôn tăng cường củng cố tình đoàn kết với các nước láng giềng, khu vực và nhiều nước trên thế giới, góp phần xứng đáng xây dựng tình đoàn kết giữa các dân tộc, chống áp bức, bóc lột, cường quyền vì mục tiêu hòa bình, tiến bộ của nhân loại. Ngày nay, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực đang có nhiều diễn biến phức tạp, quân đội ta hơn lúc nào hết cần phát huy bản chất cách mạng, phẩm chất cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ, kiên trì xây dựng, phát triển mối quan hệ đoàn kết hữu nghị với quân đội và nhân dân các nước, phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trong khu vực và trên thế giới.

Bốn là, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao

Giá trị sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao được học viên lựa chọn với số ĐTB rất cao: 4,56 điểm. Điều này cho thấy, học viên đã nhận thức rất sâu sắc về giá trị này. Sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao không những là một phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức cao quý mà còn là nhiệm vụ, yêu cầu mà Đảng và nhân dân giao cho quân đội. Điều này được thể hiện rõ ở những giá trị truyền thống vẻ vang của Bộ đội Cụ Hồ: có lệnh là đi, có địch là đánh, đã đánh là thắng. Là quân nhân luôn chấp hành nghiêm mệnh lệnh, nhất là mệnh lệnh chiến đấu đã trở thành nét nhân cách đặc trưng của mỗi quân nhân.

Bộ đội giúp dân phòng chống thiên tai

Năm là, có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, thẳng thắn, đấu tranh vì lẽ phải

Học viên tham gia khảo sát lựa chọn giá trị “có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, thẳng thắn, đấu tranh vì lẽ phải” với số ĐTB cao: 4,47, xếp thứ tư, trong đó học viên năm thứ tư lựa chọn giá trị này với số ĐTB cao hơn học viên năm thứ hai [4,52 điểm so với 4.43 điểm]. Lối sống trong sạch, lành mạnh có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, thẳng thắn, đấu tranh vì lẽ phải của quân đội ta là sự kế thừa những đức tính cao đẹp của dân tộc; xuất phát từ bản chất, đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, sự phấn đấu rèn luyện gian khổ của quân đội ta. Trung thực trước hết là sự trung thực với chính mình, nghiêm túc với chính mình, trung thực với người khác, không được “nói mà không làm”, “hứa mà không làm”. Lời nói, lời hứa chỉ có giá trị khi đi liền với việc làm cụ thể. “Làm” ở đây là hành động từ việc nhỏ đến việc lớn, là hoạt động thực tiễn tổ chức thực hiện, đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Trung thực phải được thể hiện ở sự thẳng thắn, đấu tranh vì lẽ phải, đấu tranh vì lợi ích chính đáng của tập thể, của đơn vị, của dân tộc.

Sáu là, dũng cảm, kiên cường, mưu trí, năng động, sáng tạo

Giá trị dũng cảm, kiên cường, mưu trí, năng động, sáng tạo, quyết đoán trong hoạt động nghề được học viên lựa chọn với số ĐTB 4,35 điểm. Qua trao đổi với các nhóm học viên ở các học viện, nhà trường khác nhau chung tôi thấy rằng, đa số học viên không những nắm vững nội hàm của khái niệm mà còn đưa ra được những ví dụ về sự dũng cảm, kiên cường, mưu trí, năng động, sáng tạo của cha ông và các chiến sĩ quân đội ta trong suốt lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dũng cảm, kiên cường, mưu trí, năng động, sáng tạo là một phẩm chất truyền thống tiêu biểu cho trí tuệ, phong cách của cán bộ, chiến sĩ, học viên quân đội trong thực tiễn xây dựng và chiến đấu. Đó là biểu hiện của tính cách mạng khoa học trong đấu tranh chống những kẻ thù xâm lược lớn mạnh; chống lại thiên tai ác liệt; sự kết hợp giữa ý chí quật cường và sự năng động, sáng tạo vượt qua mọi thử thách và tình huống phức tạp, sự thông minh sáng tạo trong việc phát huy mọi lực lượng, phương tiện vũ khí có trong tay, lợi dụng các quy luật, điều kiện, đặc điểm địa hình, thời tiết, sáng tạo ra cách đánh, có hiệu quả cao, phù hợp với điều kiện chiến đấu chiến trường, nắm vững các quy luật, chủ trương đối sách, sáng tạo, mưu trí, linh hoạt, kiên quyết trong xử lý các tình huống trên chiến trường, biến khả năng có hạn thành sức mạnh to lớn để chiến thắng. Trong lao động sản xuất, đó là tinh thần dám nghĩ, dám làm, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, làm chủ vũ khí trang bị hiện đại nhằm tạo ra năng suất chất lượng và hiệu quả cao, khắc phục khó khăn, giải quyết thành công những vấn đề vượt xa trình độ, khả năng, điều kiện của đơn vị.

Bảy là, hết lòng thương yêu đồng chí, đồng đội, thương yêu con người

Phẩm chất này bắt nguồn từ bản chất truyền thống của quân đội và của giai cấp vô sản. Tình thương yêu đồng chí, đồng đội lúc thường cũng như lúc chiến đấu; quan hệ dân chủ, thân ái giữa cán bộ và chiến sĩ, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa lãnh đạo và quần chúng; sự chia ngọt, sẻ bùi và cùng chung gian nan hoạn nạn đã làm cho cán bộ, chiến sĩ toàn quân trong các giai đoạn lịch sử khác nhau luôn đoàn kết như keo sơn, đồng lòng chung sức xây dựng quân đội vững mạnh, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó. Phát huy những giá trị, phẩm chất tốt đẹp đó, ngày nay các thế hệ học viên cũng luôn tích cực học tập, rèn luyện để xứng danh Bộ đội Cụ Hồ mà nhân dân trao tặng. Giá trị hết lòng thương yêu đồng chí, đồng đội, thương yêu con người này được học viên lựa chọn với số ĐTB là 4,23, xếp thứ tám.

Tám là, kỷ luật, chấp hành mệnh lệnh cấp trên

Kỷ luật, chấp hành mệnh lệnh cấp trên là truyền thống tốt đẹp, một trong những yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội ta. Kỷ luật, phục tùng mệnh lệnh cấp trên vừa là mệnh lệnh thực hiện nhiệm vụ vừa là giá trị, chuẩn mực đạo đức đặc trưng quan trọng của người quân nhân trong quân đội. Kỷ luật, chấp hành mệnh lệnh cấp trên được học viên lựa chọn với số ĐTB cao 4,47 điểm, trong đó học viên năm thứ hai có ĐTB là 4,43, học viên năm thứ tư có ĐTB là 4,50. Có thể thấy, học viên năm thứ tư đánh giá giá trị này cao hơn học viên năm thứ hai, phải chăng quá trình học tập, rèn luyện trong môi trường quân đội nhiều hơn đã giúp học viên năm thứ tư nhận thức sâu sắc hơn, có thái độ với giá trị này tốt hơn học viên năm thứ hai. Ở đây, người quân nhân có ý thức kỷ luật cao không chỉ là người tự mình giữ nghiêm kỷ luật, mà còn là người biết đấu tranh để giữ nghiêm kỷ luật chung của đơn vị. Thực tế cho thấy, quân đội ta đã rèn luyện, xây dựng được nếp sống có kỷ luật, trở thành thói quen khi thực hiện nhiệm vụ và ý thức đấu tranh kiên quyết để chống mọi hành vi vô tổ chức, vô kỷ luật. Điều này đã trở thành một giá trị chuẩn mực đạo đức, một lối sống cao đẹp của quân đội.

Chín là, ham học hỏi, cầu tiến bộ, có trình độ chuyên môn giỏi

Ham học hỏi, cầu tiến bộ là một trong những giá trị truyền thống của con người Việt nam. Giá trị này đã trở thành truyền thống tốt đẹp của quân đội; nó thấm sâu vào mỗi quân nhân, trở thành cách nghĩ và hành động trong cuộc sống của mỗi quân nhân. Giá trị này được học viên lựa chọn với số ĐTB cao 4,25. Điều này chứng tỏ đa số học viên có tinh thần ham học hỏi, cầu tiến bộ để có thêm tri thức, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Ham học hỏi, cầu tiến bộ ở người học viên được thể hiện trong chính hoạt động học tập, rèn luyện thường xuyên hàng ngày. Thể hiện ở tinh thần ham học hỏi, tích cực trau dồi kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp mà mình đảm nhiệm, ở những sáng kiến, sáng tạo, ở sự say sưa suy nghĩ, tìm tòi đóng góp về trí tuệ và công sức cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời đại hiện nay, người học viên cần xác định ham học hỏi, cầu tiến bộ không chỉ là nhiệm vụ mà còn là một giá trị, một chuẩn mực đạo đức mà mỗi học viên đều phải thấm nhuần.

  1. Nhận xét về nhận thức của học viên sĩ quan về những giá trị đạo đức quân nhân

Những giá trị đạo đức quân nhân được hình thành và phát triển không ngừng, gắn bó chặt chẽ với đời sống hiện thực, thắng lợi của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, con người mới. Thực tiễn xây dựng đất nước, xây dựng quân đội là cơ sở hiện thực để hình thành nên những giá trị đạo đức quân nhân phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, quân đội, và sự phát triển chung của xã hội.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, đa số học viên có nhận thức đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc về những giá trị đạo đức quân nhân. Những giá trị được học viên lựa chọn và đánh giá cao bao gồm các giá trị về chính trị, tư tưởng và các giá trị về đạo đức, lối sống cùng với giá trị về đặc trưng nghề nghiệp quân sự. Học viên đã có sự kết hợp hài hòa giữa những giá trị chính trị – tư tưởng, những giá trị tinh thần, giá trị đạo đức. Song những giá trị về chính trị – tư tưởng luôn được người học viên đề cao, coi trọng hơn cả.

Học viên đang học năm thứ tư có nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về các giá trị đạo đức quân nhân so với học viên năm thứ hai. Điều này cho thấy, quá trình giáo dục, đào tạo đặc biệt là giáo dục giá trị đạo đức quân nhân đã có những tác động đến nhận thức của học viên, quá trình học tập càng lâu thì nhận thức của sinh viên về các giá trị đạo đức quân nhân càng đầy đủ và sâu sắc.

Vẫn có những biểu hiện sai lệch trong nhận thức của học viên về giá trị đạo đức quân nhân. Ở một số học viên, vẫn tồn tại ý nghĩ rằng vào quân đội để được thăng quan, tiến chức, để kiếm được nhiều tiền; một số học viên mới chỉ nhận thức được bề nổi của những giá trị đạo đức quân nhân mà chưa hiểu rõ nội hàm của khái niệm, ý nghĩa, tầm quan trọng của các giá trị đạo đức đó. Thậm chí, một số học viên có những biểu hiện phai nhạt lý tưởng, không chịu phấn đấu trong học tập, rèn luyện, một số học viên khi vào học tại môi trường quân đội tìm hiểu thấy nghề nghiệp quân sự không kiếm được nhiều tiền như họ tưởng nên đã làm đơn xin ra quân, đơn vị không cho ra quân thì sẵn sàng vi phạm kỷ luật để ra quân. Vấn đề này cần được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các cấp, các ngành, các cơ sở đào tạo cũng như sự quan tâm sâu sát của chỉ huy đơn vị quản lý học viên.

Bộ đội duyệt binh

  1. Kết luận và giải pháp

Phân tích xã hội học về những giá trị đạo đức quân nhân qua nhận thức của học viên sĩ quan cho chúng ta thấy được những giá trị đạo đức cốt lõi mà người học viên sĩ quan đang lựa chọn, hướng tới. Đây là những cơ sở thực tiễn quan trọng giúp các cấp lãnh đạo, chỉ huy trong quân đội xây dựng chương trình, kế hoạch giáo dục giá trị đạo đức cho nhóm học viên góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quân sự cho quân đội đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội “chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Trên cơ sở phân tích thực trạng, bài viết đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao nhận thức về giá trị đạo đức quân nhân cho học viên sĩ quan trong các học viện, nhà trường quân đội như sau:

Thứ nhất, nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức quân nhân bằng trong các học viện, nhà trường quân đội bằng cách gắn đào tạo chuyên môn nghiệp vụ với giáo dục đạo đức quân nhân

Để nâng cao chất lượng giáo dục giá trị đạo đức quân nhân trong các nhà trường quân đội cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, các học viện, nhà trường quân đội cần xác định mục tiêu, yêu cầu giáo dục, đào tạo cụ thể cho từng chuyên ngành, từng nhóm học viên và từng cấp độ đào tạo, đồng thời tổ chức thực hiện tốt nhất các mục tiêu, yêu cầu đó. Cần xác định mục tiêu, yêu cầu khái quát và quan trọng nhất là phải giáo dục, đào tạo được đội ngũ sĩ quan có đủ phẩm chất, năng lực đảm nhiệm tốt các cương vị được giao khi ra trường.

Hai là, thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục, huấn luyện trong các nhà trường quân đội sát với tình hình thực tiễn và những dự báo của thời kỳ mới nhằm nâng cao chất lượng toàn diện. Gắn đào tạo chuyên môn nghiệp vụ với giáo dục giá trị đạo đức quân nhân cho học viên.

Ba là, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý ở các nhà trường quân đội sao cho đủ tiêu chuẩn, mô phạm, là tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức và năng lực cho học viên noi theo.

Bốn là, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cho huấn luyện; xây dựng nhà trường quân đội chính quy, hiện đại góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo đội ngũ sĩ quan cho Quân đội Nhân dân Việt Nam nói chung và giá trị đạo đức quân nhân nói riêng.

Nâng cao đời sống tinh thần cho bộ đội – Học viên học viện Hậu cần đốt lửa trại tại đơn vị

Thứ hai, phát huy vai trò của các tổ chức, lực lượng trong và ngoài quân đội với tư cách là môi trường văn hóa tác động tích cực đến hành vi đạo đức của quân nhân

Để quá trình giáo dục giá trị đạo đức quân nhân có hiệu quả, cần xây dựng tổ chức Đảng, tổ chức Đoàn Thanh niên, tổ chức chỉ huy có đủ năng lực lãnh đạo, chỉ huy và xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy gương mẫu làm cơ sở rất quan trọng trong việc bồi dưỡng, xây dựng chuẩn mực, giá trị đạo đức cho học viên.

Cán bộ chủ trì, chính trị viên các cấp, giảng viên có vai trò quan trọng quyết định đến kết quả thực hiện nhiệm vụ, xây dựng đơn vị và ảnh hưởng rất lớn đến xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, quần chúng trong đơn vị. Cán bộ chỉ huy, chính trị viên các cấp, giảng viên là tấm gương sáng, mẫu mực cho học viên noi theo về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, ý chí trách nhiệm; về năng lực trí tuệ, phong cách công tác; về đoàn kết, kỷ luật; nói đi đôi với làm, kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, lạc hậu trong đơn vị; ngăn chặn những tác động tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế thị trường qua tuyên truyền, giáo dục, thông qua sợi dây liên kết chặt chẽ giữa đơn vị, nhà trường với địa phương và gia đình học viên.

Thứ ba, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình tự giáo dục, đào tạo, tự rèn luyện đạo đức của người học viên

Để phát huy tính tích cực, đề cao tính chủ động của người học viên trong tự giáo dục, đào tạo, tự rèn luyện nâng cao đạo đức cánh mạng quân nhân cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:

Một là, tăng cường giáo dục những giá trị đạo đức quân nhân, kịp thời khơi dậy tình cảm yêu mến, gắn bó nghề nghiệp; phát huy ý thức trách nhiệm, tính tích cực, tự giác trong chiến đấu, học tập, công tác, rèn luyện của mỗi học viên nhằm nâng cao đạo đức quân nhân, phẩm chất nghề nghiệp quân sự.

Hai là, đẩy mạnh phong trào thi đua quyết thắng, các cuộc vận động và các nội dung, chương trình hoạt động của đơn vị, tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị tạo môi trường thuận lợi cho học viên phát huy cao độ tính tự giác, tinh thần sáng tạo, năng lực, trí tuệ trong mọi hoạt động của đơn vị.

Ba là, tổ chức tốt sinh hoạt tự phê bình và phê bình, hàng năm đánh giá đúng ưu điểm, khuyết điểm của học viên; kịp thời biểu dương, khen thưởng những chiến công, thành tích, đồng thời phê phán những quan điểm, tư tưởng, hành vi chậm tiến bộ, kiên quyết kỷ luật những sai phạm.

Tài liệu tham khảo

  1. Đỗ Ngọc Anh [2009], Giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên các chuyên ngành thuộc lĩnh vực văn hóa – thông tin. Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
  2. Thân Trung Dũng [2015], Định hướng giá trị nghề nghiệp của học viên sĩ quan trong các học viên, nhà trường quân đội khu vực phía bắc hiện nay, luận án tiến sĩ xã hội học, khoa xã hội học, Học viện Khoa học Xã hội.
  3. Mai Xuân Hợi, Giá trị đạo đức và sự biểu hiện của nó trong đời sống xã hội, Tạp chí Triết học, Nguồn: //www.chungta.com/.
  4. Harry K. Schwarzweller [1958], Value Orientations in Educational and Occupational Choices [“Value-Orien tations, Social Structure and Occupational Choice”], Sociology, Rural Sociology, University of Kentucky, United States.

Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, Số tháng 12/2006.Tác giảThân Trung Dũng. SĐT: 0965611555. Email:

[1] Mỗi chỉ báo được gắn cho các điểm số từ 1 đến 5 theo từng mức độ cụ thể: 1 = Rất không quan trong; 2 = Không quan trọng; 3 = Bình thường; 4 = Quan trọng; 5 = Rất quan trọng. Các chỉ báo được đánh giá bằng điểm trung bình [ĐTB] với thang đo khoảng cụ thể: 1 ≤ ĐTB < 1.80: Rất không quan trọng; 1.80 ≤ ĐTB < 2.60: Không quan trọng; 2.60 ≤ ĐTB < 3.40: Bình thường; 3.40 ≤ ĐTB < 4.20: Quan trọng; 4.20 ≤ ĐTB ≤ 5: Rất quan trọng.

Video liên quan

Chủ Đề