Hướng dẫn tội lưu hành tiền giả

Điều 207 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:

Điều 207. Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả

1. Người nào làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội trong trường hợp tiền giả có trị giá tương ứng từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.

3. Phạm tội trong trường hợp tiền giả có trị giá tương ứng từ 50.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.

4. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

2. Các yếu tố cấu thành tội phạm

  • Chủ thể: người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định
  • Lỗi: cố ý trực tiếp
  • Hành vi khách quan:

–  Làm tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả. Người phạm tội có thể tham gia vào toàn bộ quá trình làm tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả hoặc có thể chỉ là một công đoạn của quá trình đó.

– Tàng trữ tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả. Đây là hành vi cất giữ trái phép trong nhà, trong người hoặc ở một nơi nào đó [như cơ sở kinh doanh, vườn…] các loại tiền giả, công trái giả, ngân phiếu giả.

– Vận chuyển tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả. Đây là hành vi vận chuyển tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả. Đây là hành vi vận chuyển tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả từ địa điểm này đến địa điểm khác trái với quy định của pháp luật. Hành vi vận chuyển tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả có thể được thực hiện bằng bất kì hình thức nào như mang theo người, chuyển qua đường bưu điện, tầu hỏa, máy bay…

– Hành vi lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả là hành vi mua đi bán lại các đối tượng đó dưới bất kì hình thức nào như mua bán theo nghĩa thông thường, trao đổi, thanh toán bằng tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả…

3. Hình phạt

  • Khung cơ bản: phạt tù từ ba năm đến bảy năm
  • Khung tăng nặng thứ nhất: phạt tù từ năm năm đến mười hai năm trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng
  • Khung tăng nặng thứ hai: phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân trong trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng
  • Hình phạt bổ sung: phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VỀ TỘI TÀNG TRỮ, LƯU HÀNH TIỀN GIẢ” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

STT

TÊN VÀ NỘI DUNG BẢN ÁN

TRANG

1.

Bản án số 55/2017/HSST ngày 14/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành tỉnh Bến Tre về “Tội lưu hành tiền giả”.

Tóm tắt nội dung vụ án:

Do không có tiền tiêu xài và chi trả nợ nần, nên Nguyễn Văn T đã nảy sinh ý định mua tiền giả loại mệnh giá có giá trị lớn, sau đó đem tiền giả mua những mặt hàng giá trị nhỏ để lấy tiền thật. Ngày 26/12/2016, T liên lạc với một người tên là T [không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể] tại quán cà phê ở phường Tân Thới Hiệp, quận 12 Tây mua của T 200 tờ tiền giả loại mệnh giá 200.000đ tương đương 40.000.000đ tiền thật với giá 20.000.000đ. Ngày 28/12/2016, T sử dụng 04 tờ tiền giả trên trả tiền thua đá gà và 02 tờ tiền giả trả tiền mua số đề. Để thuận tiện cho việc tiêu thụ tiền giả, tránh người bán hàng phát hiện T rủ Lý Thị Tuyết N [bạn gái của T] cùng với T tiêu thụ tiền giả để trả tiền thiếu nợ. Lúc đầu N không đồng ý, nhưng sợ T làm một mình dễ bị bắt, nên N đồng ý cùng với T đi về Bến Tre để tiêu thụ tiền giả. Sau khi hướng dẫn N phân biệt tiền thật, tiền giả và cách tiêu thụ, từ ngày 31/12/2016 đến ngày 06/01/2017, trên các đoạn đường từ huyện Hóc Môn, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh về tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, T và N đã tiêu thu trót lọt 46 tờ tiền giả, trong đó: tại khu vực huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh tiêu thụ 01 tờ; đoạn huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh đến thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang tiêu thụ 15 tờ; đoạn thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang đến thị trấn Chợ Lách, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre tiêu thụ 17 tờ; xã Sơn Định, huyện Chợ Lách tiêu thụ 04 tờ; đoạn từ phà Tân Phú đến xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre tiêu thụ 07 tờ; tại chợ thuộc ấp Tiên Tây Vàm, xã Tiên thủy, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre tiêu thụ 02 tờ. Đến khoảng 07 giờ 50 phút, ngày 06/01/2017, trong lúc T và N đang tiêu thụ tiền giả tại khu vực chợ thuộc ấp Tiên Tây Vàm, xã Tiên thủy, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre thì bị lực lượng Công an phát hiện, T điều khiển xe môtô biển kiểm soát 52P2- 9100 chở N bỏ chạy về hướng thành phố Bến Tre, đến tiệm uốn tóc “Pé Zàng” thuộc Hương lộ 2, ấp 4, xã Sơn Đông, thành phố Bến Tre thì bị lực lượng Công an bắt giữ.

Toà án cấp sơ thẩm nhận định:

Căn cứ vào Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Nguyễn Văn Tây, Lý Thị Tuyết Nhung đã phạm vào tội “Lưu hành tiền giả” theo quy định tại khoản 2 Điều 180 của Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre truy tố có căn căn, đúng người, đúng tội.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước trong lĩnh vực phát hành và lưu hành tiền tệ.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo T là người cầm đầu, trực tiếp mua tiền giả, rủ rê lôi kéo bị cáo Nhung cùng tham gia và là người thực hiện việc lưu hành tiền giả, chiếm giữ quản lý tiền thật sau khi đổi thành công. Bị cáo N giữ vai trò thực hành giúp sức tích cực cho bị cáo T. Do vậy, mức hình phạt của bị cáo N nhẹ hơn so với bị cáo T là phù hợp.

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo T có 01 tiền án, bị cáo bị kết án về tội rất nghiêm trọng chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng, lần phạm tội này thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999. Bị cáo N không có tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ, các bị cáo có tình tiết giảm nhẹ: các bị cáo tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo đều có con nhỏ chưa thành niên, các bị cáo đã tự nguyện bồi thường để khắc phục hậu quả là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, ngoài ra bị cáo N có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự. Với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo, răn đe và phòng ngừa chung.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Bị cáo Nguyễn Văn T, Lý Thị Tuyết N [D] phạm tội “Lưu hành tiền giả”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 07 [bảy] năm tù.

Xử phạt bị cáo Lý Thị Tuyết N 03 [ba] năm 06 [sáu] tháng tù.

1-9

2.

Bản án số 41/2017/HSST ngày 31/10/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thạch Thành tỉnh Thanh Hóa về “Tội lưu hành tiền giả”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Sáng ngày 31/7/2017, Bùi Thị Th đi xe mô tô mang theo một số tiền giả, loại Polyme mệnh giá 200.000 đồng vào địa bàn huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa để tiêu thụ. Khi đi đến thị trấn Kim Tân, Th vào cửa hàng bán đồ dùng học sinh của bà Lê Thị Bích Liên dùng 01 tờ tiền giả, mệnh giá 200.000 đồng mua 01 chiếc ba lô, 05 quyển vở học sinh, 01 hộp đựng bút với tổng giá tiền là 185.000 đồng và được bà Liên trả lại 15.000 đồng. Mua bán xong, Th tiếp tục đi vào chợ Thành Kim, dùng 01 tờ tiền giả, mệnh giá 200.000 đồng mua của bà Phạm Thị Đàn, 0,8 kg gan lợn với giá 30.000 đồng và được bà Đàn trả lại 170.000 đồng. Sau đó, Th đi lên địa bàn xã Thành Vinh, vào cửa hàng tạp hóa của bà Nguyễn Thị Dung dùng 01 tờ tiền giả, mệnh giá 200.000 đồng mua 01 chai Cocacola loại 1,5 lít, 01 chai dầu ăn Simply loại 01 lít, với tổng giá tiền là 59.000 đồng và được bà Dung trả lại 141.000 đồng. Sau khi mua hàng ở quán bà Dung, Th tiếp tục đi đến quán nhà bà Lê Thị Năm dùng 01 tờ tiền giả, mệnh giá 200.000 đồng mua 05 quyển vở học sinh với giá 30.000 đồng. Khi nhận tờ tiền giả do Th đưa, bà Năm nghi ngờ là tiền giả nên không lấy mà yêu cầu Th trả tiền lẻ, Th buộc phải lấy tiền thật ra để trả cho bà Năm số tiền 30.000 đồng, rồi quay ra lấy xe đi về. Cùng lúc này, bà Dung do nghi ngờ tờ tiền mà Th trả khi mua hàng  trước đó là tiền giả, nên đã đuổi theo và bắt gặp Th tại quán nhà bà Năm, bà Dung hô mọi người giữ Th lại, báo Công an xã Thành Vinh đến lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Bùi Thị Th về hành vi lưu hành tiền giả.

Toà án cấp sơ thẩm nhận định:

Hành vi dùng tiền giả để mua các vật dụng sinh hoạt và được trả lại tiền thừa bằng tiền thật của Bùi Thị Th đã phạm vào tội “Lưu hành tiền giả “. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 180 Bộ luật hình sự 1999.

Hành vi của bị cáo mang tính chất nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền quản lý tài chính của nhà nước, làm đồng tiền Việt Nam bị mất giá, đồng thời gây thiệt hại về tài sản cho người khác và gây tâm lý hoang mang quần chúng nhân dân. Hội đồng xét xử xét thấy, cần xét xử bị cáo một mức án phù hợp, tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tình tiết tăng nặng: Mặc dù số lượng tiền giả bị cáo lưu hành là 1.600.000 đồng, nhưng bị cáo đã ba lần thực hiện trót lọt việc tiêu thụ tiền giả ở các địa điểm và thời gian khác nhau, mỗi một lần đều đủ yếu tố cấu thành tội lưu hành tiền giả. Vì vậy, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 điều 48 Bộ luật hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có 3 tình tiết giảm nhẹ là tự nguyện bồi thường thiệt hại, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa khai báo thật thà thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải với tội lỗi đã phạm, người bị hại có đơn đề nghị xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, p khoản 1 và khoản 2 điều 46 Bộ luật hình sự. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, hiện tại đang nuôi 02 con nhỏ [ 01 cháu mới 18 tháng tuổi ], văn hóa thấp [ không đi học ], trình độ nhận thức pháp luật còn hạn chế nên khi bị người khác đưa tiền giả bị cáo đã tiếc của mà mang đi tiêu thụ. Nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, từ trước đến nay chưa có vi phạm pháp luật gì. Hội đồng xét xử xét thấy, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, cho bị cáo được hưởng án treo theo quy định tại khoản 1, 2 điều 60 BLHS cũng đủ giáo dục bị cáo sửa chữa lỗi lầm, trở thành người công dân có ích cho xã hội, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật nhà nước ta.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Bị cáo Bùi Thị Th phạm tội “Lưu hành tiền giả”. Xử phạt: Bùi Thị Th 03 [ Ba ] năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 [ năm] năm, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

10-16

3.

Bản án số 24/2017/HSST ngày 27/10/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình về “Tội lưu hành tiền giả”.

Tóm tắt nội dung vụ án:

Khoảng đầu tháng 02/1997, khi việc làm ăn gặp khó khăn, T tình cờ gặp và làm quen với một người đàn ông tên là V [theo lời khai của T] gần nơi T ở. Biết T đang đi tìm việc làm, V đưa ra một xấp tiền mới loại mệnh giá 50.000 đồng và hỏi “có tiêu tiền này không?” rồi V nói tiếp “đây là tiền giả, tiêu không sợ đâu, cầm tiền đi mua đồ rồi người ta sẽ trả lại tiền thật cho”, V nói với T, nếu đổi 300.000 đồng tiền thật thì được 1.000.000 đồng tiền giả. T về nói lại với T1 về việc có người rủ tiêu tiền giả, khi T1 hỏi lấy tiền giả ở đâu thì T nói có một người phụ nữ lấy chồng Trung Quốc ở khu vực biên giới sẽ đổi giúp, T giấu việc quen biết với người đàn ông tên V. T cũng nói lại với T1 cách thức tiêu tiền giả như lời của V đã nói với T. T1 bảo “Cứ lấy tiêu thử xem thế nào”.

Chiều tối hôm sau, T mang theo 900.000 đồng tiền của cá nhân T để đi gặp người tên V, đổi được 3.000.000 đồng tiền giả, gồm các loại mệnh giá 10.000 đồng, 20.000 đồng và 50.000 đồng. T mang về phòng trọ để trong hòm riêng của mình. Một lần khác, nhân lúc T1 về quê ở huyện N, tỉnh Ninh Bình, T đã gặp lại V, hai người đi khách sạn để quan hệ tình dục, sau đó T được V cho số tiền giả 1.000.000 đồng gồm các mệnh giá 10.000 đồng và 50.000 đồng, T giấu không cho T1 biết việc V cho T 1.000.000 đồng tiền giả. Với số tiền giả 4.000.000 đồng, T đã nhiều lần đưa cho Lưu Trọng T1, Trần Văn Đ [em rể T] và cháu Trần Đức T2[cháu ruột T] mang đi lưu hành tại địa bàn các tỉnh Ninh Bình, Phú Thọ, Hải Dương. Khi đang lưu hành ở Phú Thọi thì Đ bị phát hiện và bắt giữ.

Sau khi nghe tin Đ bị bắt, Vũ Thị T đã bỏ trốn sang Hà Khẩu, Trung Quốc từ tháng 9/1997 đến ngày 02/6/2017 thì bị phòng Cảnh sát truy nã tội phạm Công an tỉnh Ninh Bình bắt giữ khi T về dự đám hiếu của gia đình người bạn ở thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc.

Toà án cấp sơ thẩm nhận định:

Hành vi đưa số tiền giả có giá trị tương ứng với số tiền 4.000.000 đồng của bị cáo Vũ Thị T vào lưu hành là phạm tội “Lưu hành tiền giả“, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 180 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị cáo ra trước Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình để xét xử về tội danh và điều luật như đã viện dẫn ở trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế nói chung và quản lý của nhà nước trong lĩnh vực quản lý tiền tệ nói riêng, tác động rất xấu đến trật tự trị an và an toàn xã hội, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Bị cáo nhiều lần đưa tiền giả cho Lưu Trọng T1, Trần Văn Đ, Trần Đức T2 đem đi lưu hành tại nhiều địa bàn ở các tỉnh khác nhau nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội nhiều lần” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; sau khi phạm tội bỏ trốn gây khó khăn cho quá trình điều tra, làm cho vụ án kéo dài nhiều năm. Căn cứ tính chất vụ án, hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo Vũ Thị T gây ra, vai trò của bị cáo trong đồng phạm thấy cần phải xử phạt bị cáo T nghiêm khắc bằng loại hình phạt tù có thời hạn cách ly bị cáo với xã hội một thời gian tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội. Bị cáo Vũ Thị T được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là, quá trình điều tra và tại phiên tòa có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, hiện tại bị cáo bị bệnh HIV là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1 khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Bị cáo Vũ Thị T phạm tội “Lưu hành tiền giả“. Xử phạt bị cáo Vũ Thị T 4 [Bốn] năm tù.

17-22

4.

Bản án số 220/2017/HSST ngày 20/9/2017 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội về “Tội lưu hành tiền giả”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ngày 16 tháng 11 năm 2016. Phạm Thế H, Phạm Văn A, Nguyễn Vũ L mua 20.000.000 đồng tiền giả, loại tiền mệnh giá 200.000 đồng, bán cho hai người [không xác định] được 9.950.000 đồng. Khoảng 11 giờ ngày 27 tháng 11 năm 2016, tổ công tác Công An phường Mỹ Đình 2, làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát tại khu vực bến xe khách Mỹ Đình phát hiện Phạm Văn A có biểu hiện nghi vấn đã tiến hành kiểm tra hành chính thu giữ trong ví của A có 02 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng, 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng. A khai  nhận một tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng có mã số hiệu: DJ 37486253 là tiền giả A mang đi làm mẫu cho khách. Công  an phường Mỹ Đình 2 đã đưa Phạm Văn A về trụ sở làm việc.

Toà án cấp sơ thẩm nhận định:

Hành vi của các bị cáo Phạm Thế H, Phạm Văn A, Nguyễn Vũ phạm vào tội “Lưu hành tiền giả” theo khoản 2 Điều 180 Bộ luật Hình sự 1999 như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Các bị cáo cùng nhau thực hiện tội phạm không có kẻ chủ mưu, cầm đầu mà là đồng phạm giản đơn, do đó các bị cáo chịu trách nhiệm hình sự ngang nhau.

Các bị cáo phạm tội có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội nhiều lần quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự. Các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo thể hiện, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lần đầu bị xét xử đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

các bị cáo Phạm Thế H; Phạm Văn A; Nguyễn Vũ L phạm tội “Lưu hành tiền giả”.

Xử phạt: Phạm Thế H 06 năm 06 tháng tù. Phạm Văn A 06 năm 06 tháng tù. Nguyễn Vũ L 06 năm 06 tháng tù.

23-29

5.

Bản án số 53/2017/HS-PT ngày 13/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình về “Tội lưu hành tiền giả”.

Tóm tắt nội dung vụ án:

Hoàng Xuân H và Hoàng Minh C là lái xe ô tô. Trong lúc chờ bóc hàng C nằm trong xe còn H đi lang thang thì gặp hai người đàn ông Trung Quốc mời mua tiền giả. Sau khi thoả thuận xong H mua 3.000.000 đồng tiền giả gồm 15  tờ  Polymer  mệnh  giá  200.000  đồng với giá 1.500.000 đồng để tiêu xài. H cất số tiền giả mua được vào trong ví và túi xách của mình, đến 17 giờ cùng ngày cùng với C điều khiển xe ô tô chở hàng từ Cửa khẩu Hữu Nghị sang Lào. Đến 08 giờ ngày 18/11/2016 khi xe đến Cửa khẩu Quốc tế Cha Lo, Quảng Bình, C giao cho H 1.550.000 đồng để nộp lệ phí bến bãi tại Đội quản lý thu phí Công ty quản lý hạ tầng khu kinh tế Quảng Bình. Biết được tại trạm thu phí này không có máy soi tiền nên H lấy 04 tờ tiền giả mệnh giá 200.000 đồng kẹp với tiền thật rồi đem nộp cho trạm thu phí thì bị nhân viên trạm thu phí phát hiện nên yêu cầu H đổi lại. Nhận được tin báo lực lượng Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Cha Lo phối hợp với Chi cục Hải Quan Cửa khẩu Quốc tế Cha Lo kiểm tra phát hiện, lập biên bản bắt quả tang 04 tờ tiền giả mệnh giá 200.000 đồng trong người của H và 11 tờ tiền giả mệnh giá 200.000 đồng trong túi xách của H.

Tòa án sơ thẩm tuyên:

Tuyên bố bị cáo Hoàng Xuân H phạm tội “Lưu hành tiền giả”. Xử phạt bị cáo Hoàng Xuân H 36 tháng tù.

Bị cáo Hoàng Xuân H có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Toà án cấp phúc thẩm nhận định:

Bị cáo Hoàng Xuân H biết rõ hành vi “Lưu hành tiền giả” là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện nhằm thu lợi bất chính. Hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ của Nhà nước, phá hoại nền kinh tế, do vậy cần xử lý nghiêm minh. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, bố bị cáo là người có công cách mạng được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có thêm tình tiết gì mới chưa được cấp sơ thẩm xem xét nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo giảm án cho bị cáo.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên hình phạt của án sơ thẩm.

30-32

6.

Bản án số 34/2020/HS-ST ngày 01/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Tán Linh tỉnh Bình Thuận về “Tội tàng trữ, lưu hành tiền giả”.

Tóm tắt nội dung vụ án:

Năm 2018, Lê Quang K [Nhí] đi làm thuê tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang và được trả tiền công, trong đó có 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng. Trên đường về nhà, K ghé một quán nước tại thị trấn Z, huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận uống nước và dùng tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng mua bật lửa của một người đàn ông [không rõ nhân thân] bán hàng rong thì người đàn ông không đồng ý và nói cho K biết tờ tiền K đưa là giả vì có màu sắc nhạt, không trơn bóng như tiền thật. Biết tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng là giả nhưng K vẫn đem về nhà cất vào trong tủ quần áo. Đến tháng 01 năm 2020, khi dọn tủ quần áo thấy tờ tiền giả mệnh giá 500.000 đồng nên K lấy bỏ vào trong ví và thường xuyên mang theo trong người… Khoảng 09 giờ 55 phút ngày 22/4/2020, Công an xã 9 đem tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, có số seri: TF17534151 đến Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận để kiểm tra thì xác định đây là tiền giả. Qua xác minh xác định Lê Quang K và Đỗ Văn N đã đến quán cà phê XYZ uống cà phê tối 21/4/2020 và dùng tờ tiền giả mệnh giá 500.000 đồng, số seri: TF17534151 để thanh toán nên Công an xã đã mời Nam, K làm việc thì cả hai thừa nhận toàn bộ hành vi của mình.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Xử phạt bị cáo Lê Quang K về tội: “Tàng trữ, lưu hành tiền giả”, theo khoản 1 Điều 207 Bộ luật hình sự.

Toà án cấp phúc thẩm nhận định:

Hành vi của bị cáo Lê Quang K đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ, lưu hành tiền giả”; Hành vi của bị cáo Đỗ Văn N đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Lưu hành tiền giả”, tội phạm và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật hình sự.

Hành vi nêu trên của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý tài chính, trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ. Trong vụ án này, bị cáo Lê Quang K và Đỗ Văn N phạm tội với vai trò đồng phạm, trong đó bị cáo K có vai trò là người cầm đầu, khởi xướng, rủ rê, còn bị cáo N là người trực tiếp thực hiện hành vi và là người giúp sức tích cực.

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Bị cáo Lê Quang K [Nhí] phạm tội “Tàng trữ, lưu hành tiền giả”; Bị cáo Đỗ Văn N phạm tội “Lưu hành tiền giả”. Xử phạt: Lê Quang K 03 [ba] năm tù; Tổng hợp hình phạt của bản án hình sự sơ thẩm số 18/2020/HS-ST ngày 18/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 10 [mười] năm tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ trong vụ án khác, ngày 25/5/2020 nhưng được khấu trừ thời gian đã chấp hành án. Xử phạt: Đỗ Văn N 03 [ba] năm tù nhưng cho hưởng án treo; Thời gian thử thách là 60 [sáu mươi] tháng tính từ ngày tuyên án 01/12/2020.

XEM TIẾP TẠI LINK PDF DƯỚI ĐÂY

33-40

XEM TOÀN BỘ BẢN ÁN VÀ TẢI FILE PDF: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VỀ TỘI TÀNG TRỮ, LƯU HÀNH TIỀN GIẢ

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email:    

Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: //www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  //www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: //www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: //www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: //www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: //www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: //t.me/luatsufdvn

Video liên quan

Chủ Đề