Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng

Mặc dù đa số cán bộ, đảng viên phát huy vai trò tiên phong, năng động, sáng tạo, giữ gìn phẩm chất đạo đức”, tuy nhiên, một bộ phận cán bộ đảng viên đã bị tha hoá, biến chất, làm giảm uy tín của Đảng trước nhân dân, giảm lòng tin của nhân dân với Đảng. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...” [Báo cáo chính trị, 2006]. Một số hành vi tiêu cực, lạm dụng quyền hành để mưu cầu lợi ích riêng, làm giàu bất chính ở một bộ phận cán bộ, nhân viên đang là một cản trở lớn trong việc hoàn thành nhiệm vụ và tạo nên sự giảm sút uy tín của ngành cơ quan, đơn vị, ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế cũng như sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trước hiện trạng đó, vấn đề cấp thiết là phải thực hiện giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên nói chung và nhất là các đảng viên trẻ nói riêng, bồi dưỡng nhận thức về đạo đức của người cán bộ cách mạng trong thời đại mới và quét sạch chủ nghĩa cá nhân trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đồng thời, trước những đòi hỏi của thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, cần giáo dục cho các đảng viên trẻ tăng cường bồi dưỡng các kỹ năng tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện và ý chí phấn đấu cho đảng viên để họ biết cách thức tự điều chỉnh, tự điều khiển bản thân mình, sửa mình cho phù hợp với những tiêu chí, yêu cầu đòi hỏi khách quan của tình hình, nhiệm vụ mới. Luôn bám sát thực tiễn đời sống xã hội và thông qua các hoạt động thực tiễn sinh động, để giáo dục tinh thần tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện cho đảng viên trẻ phù hợp với lĩnh vực, công việc, chức trách, nhiệm vụ của từng đảng viên.

I. QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC CƠ BẢN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng, nhà lãnh tụ cách mạng, lúc sinh thời, đã bàn nhiều về vấn đề đạo đức. Hệ thống lí luận, quan điểm của Người không tập trung trong một tác phẩm đạo đức lớn mà nằm trong nhiều bài viết, bài phát biểu diễn đạt rất cô đọng, hàm xúc, giản dị phù hợp với nhiều tầng lớp nhân dân Việt Nam.

Trước khi bàn về một số quan điểm đạo đức cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ta cần làm rõ khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh,cơ sở hình thành và hệ thống nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thứ nhất, về khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh, năm 1991, Đại hội Đảng lần thứ VII đã đưa ra một khái niệm về Tư tưởng Hồ Chí Minh. Đến Đại hội Đảng lần thứ IX năm 2001, một lần nữa, Đảng đưa ra khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại …” [Văn kiện Đại hội Đảng IX, 2001]. Đây là một khái niệm có tính định nghĩa.Với khái niệm này, Đảng ta đã làm rõ bản chất cách mạng, khoa học; nội dung cơ bản; nguồn gốc tư tưởng, lý luận và giá trị, ý nghĩa, sức sống lâu bền của tư tưởng Hồ Chí Minh. Sử dụng định hướng nêu trên của Đảng làm kim chỉ nam trong công tác nghiên cứu, trong những năm qua, các nhà khoa học đã bước đầu thống nhất định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh như sau: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.” [Hỏi & Đáp Tư tưởng Hồ Chí Minh, 2011].

Thứ hai, về tiền đề tư tưởng – lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, có thể nói Tư tưởng Hồ Chí Minh có tiền đề từ sự tiếp biến tinh hoa tư tưởng, văn hóa của dân tộc, nhân loại và thời đại.

Năm 1990, trong Nghị quyết 24C/18.65 của UNESCO về Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh,tổ chức này đã khẳng định “Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh truyền thống văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam”. Yếu tố truyền thống tư tưởng và văn hóa Việt Nam bao gồm trước tiên là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước; tiếp đó là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái:

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng

[Ca dao Việt Nam]

Trong yếu tố truyền thống tư tưởng và văn hóa Việt Nam hình thành lên tư tưởng Hồ Chí Minh còn có truyền thống lạc quan, yêu đời và đặc điểm nhân dân ta có truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh sáng tạo trong sản xuất và chiến đấu, đồng thời ham học hỏi và không ngừng mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa nhân loại.

Yếu tố tinh hoa văn hóa nhân loại cũng góp phần quan trọng hình thành lên tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có các tư tưởng văn hóa phương Đông như Nho giáo, Phật giáo, tư tưởng của Lão Tử, Mặc Tử …., và những nét “phù hợp với nước ta” từ chủ nghĩa “tam dân” của Tôn Trung Sơn. Bên cạnh đó, phải để đến tư tưởng và văn hóa phương Tây như nền văn hóa dân chủ và cách mạng phương Tây, văn hóa và tinh thần cách mạng vô sản của Pháp, tư tưởng dân chủ của Mỹ với ý chí đấu tranh cho tự do, độc lập, cho quyền sống của con người.

Ngoài các yếu tố truyền thống nước nhà và tinh hoa văn hóa nhân loại, tư tưởng Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã tìm được phương pháp luận và cơ sở thế giới quan cho tư tưởng của mình.Điều này đă được thể hiện trong những dòng viết đầy xúc động của Người sau khi Lê-nin mất: “Lê-nin là người đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng về sự giản dị vĩ đại và sự khiêm tốn cao độ, không phải chỉ thiên tài của Người mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim họ hướng về Người, không có gì ngăn nổi”.

Như vậy, cơ sở hình thành lên tư tưởng Hồ Chí Minh, ngoài yếu tố chủ quan là những phẩm chất thiên tài của Hồ Chí Minh còn có các yếu tố thuộc về truyền thống dân tộc, tinh hoa nhân loại và chủ nghĩa Mác – Lê-nin.

Thứ ba, về hệ thống nội dung cơ bản, Tư tưởng Hồ Chí Minh mang tính toàn diện, bao trùm nhiều lĩnh vực, trong đó có thể nêu những tư tưởng chủ yếu gồm: Tư tưởng về dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc; Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; Tư tưởng về Đảng Cộng sản Việt Nam; Tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc; Tư tưởng về quân sự; Tư tưởng về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân; Tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; Tư tưởng về đạo đức Hồ Chí Minh; Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh; Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh …

Như vậy, ta có thể xác định, đạo đức là một trong các nội dung chủ yếu và cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh.Vậy đạo đức có vị trí, vai trò như thế nào trong tư tưởng Hồ Chí Minh và trong đời sống, sự nghiệp của người cán bộ, đảng viên?
I.1. Vị trí, vai trò của đạo đức

Đạo đức được hiểu theo nghĩa chung nhất là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực, định hướng giá trị được xã hội thừa nhận, có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác và toàn xã hội. Đạo đức được cấu thành từ 3 yếu tố cơ bản là ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và quan hệ đạo đức. Vai trò của đạo đức được thể hiện trong chức năng của đạo đức. Xét về chức năng, đạo đức có 3 chức năng chính là phản ánh quan hệ lợi ích giữa cá nhân với cá nhân khác, với tập thể và với xã hội, chức năng giáo dục lẫn nhau giữa các cá nhân và cá nhân, cá nhân và công động, chức năng điều chỉnh. Mối quan hệ giữa đạo đức và trình độ học vấn, trình độ nhận thức trong mỗi cá nhân không hẳn là quan hệ tỷ lệ thuận. Người có trình độ học vấn cao chưa hẳn đã có ý thức và hành vi đạo đức cao. Tuy nhiên, để có được nhân cách cao thượng thì phải có đạo đức tốt và năng lực hiểu biết nất định. Từ những chức năng cơ bản trên, có thể thấy rằng đạo đức đóng vai trò quan trọng đối với đời sống xã hội.
I.1.1. Vị trí, vai trò đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Ngay từ những năm tháng đầu hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức chính là gốc của con người cách mạng. Điều này không chỉ thể hiện trong suốt cuộc đời thực hành đạo đức cách mạng mẫu mực của Người mà còn được nhận thấy rất rõ qua các tác phẩm Người để lại cho chúng ta. Trong tác phẩm “Đường Kách Mệnh” in lần đầu tại Quảng Châu năm 1927, Người đã nêu lên 23 điểm về “Tư cách người cách mạng”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức được phân tách rõ ràng trong ba mối quan hệ “tự mình”, “đối với người” và đối với công việc [Tư cách một người cách mệnh, 2007].

Với mỗi người, Bác so sánh đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Bác viết“Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 16, 2002, pp. 252-253].

Khi đánh giá vai trò của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối.Theo Người, đạo đức cách mạng giúp con người vững vàng trong mọi thử thách vì đạo đức là nền tảng tạo ra sức mạnh:“có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại không rụt rè lùi bước”,“khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”,mới“lo trước thiên hạ, vui sao thiên hạ”; “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.

Đạo đức là gốc, là nền tảng liên quan tới Đảng cầm quyền.Đảng cầm quyền lãnh đạo toàn xã hội, lãnh đạo nhà nước. Nếu cán bộ, đảng viên của Đảng không tu dưỡng về đạo đức cách mạng thì mặt trái của quyền lực có thể làm tha hoá con người. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người thường nhắc lại lời của Lê-nin: Đảng Cộng Sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại. Người nói cán bộ, đảng viên muốn cho dân tin, dân yêu, dân phục thì không phải “viết lên trán chữ cộng sản là được quần chúng yêu mến. Quần chóng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức”.

Vai trò của đạo đức cách mạng còn thể hiện ở chỗ đó là thước đo lòng cao thượng của con người. Theo quan điểm của Hồ Chí minh, mỗi người có công việc, tài năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng là người cao thượng.

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, không phải một chiều phụ thuộc vào tồn tại xã hội, vào những điều kiện vật chất kinh tế. Nó có khả năng tác động tích cực trở lại, cải biến tồn tại xã hội. Giá trị đạo đức tinh thần một khi được con người tiếp nhận sẽ biến thành một sức mạnh vật chất.

Chính vì vậy mà Người luôn luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho cán bộ, Đảng viên. Người yêu cầu mỗi cán bộ Đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, Đảng phải quan tâm chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xă hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.

Ngoài ra, quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng người có tài năng mà không có đạo đức thì đó là người vô dụng, nhưng ngược lại, người có đạo đức mà không có tài năng thì trong bất kể công việc nào cũng sẽ gặp nhiều khó khăn. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.

Với tư duy độc lập và sáng tạo, Hồ Chí Minh đă xuất phát từ thực tiễn Việt Nam thực hiện một công việc kế thưa có chọn lọc, thâu hoá những giá trị đạo đức của quá khứ, đề xuất những tư tưởng đạo đức mới phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Hồ Chí Minh xem xét tới đạo đức trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận, Người để lại cho chúng ta một hệ thống quan điểm sâu sắc và toàn diện về đạo đức. Về thực tiễn, Người luôn coi thực hành đạo đức là một mặt không thể thiếu của cán bộ, Đảng viên. Cũng như V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đào tạo các chiến sĩ cách mạng không chỉ bằng chiến lược, sách lược mà còn bằng chính tấm gương đạo đức trong sáng của mình.
1.1.2. Vị trí, vai trò đạo đức trong đời sống, sự nghiệp của người cán bộ đảng viên trẻ

Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu về khái niệm cán bộ là gì, sau đó mới bàn đến việc cán bộ phải có đức tính thế nào, và đạo đức có vai trò, vị trí ra sao trong đời sống, sự nghiệp của người cán bộ đảng viên.

Trước hết, theo Người, “cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”. [Hồ_Chí_Minh, 1947]. Hiểu được khái niệm cán bộ đảng viên như vậy, chúng ta cũng cần xác định được các đức tính chủ yếu yêu cầu một người cán bộ đảng viên phải có và sau đó phân tích tại sao các đức tính đó lại quan trọng với người cán bộ đảng viên, từ đó khái quát lên vị trí, vai trò của đạo đức đối với đời sống và sự nghiệp của cán bộ đảng viên.

Theo Bác, đối với bản thân, người cán bộ không được tự mãn vì tự mãn rồi thì không có động cơ để tiến bộ. Người cán bộ cũng phải học hỏi tiến bộ, không được kiêu ngạo và phải siêng năng tiết kiệm. Có như vậy mới đảm bảo được cuộc sống cho chính bản thân mình và gia đình của mình. Đối với đồng chí, đồng nghiệp, cán bộ đảng viên phải thân ái với nhau nhưng không che đậy những điều dở mà phải học cái hay để sửa cái dở. Đối với đồng nghiệp trong môi trường công việc hoặc đối với bạn bè, không nên tranh giành ảnh hưởng của nhau, bỏ lối hiếu danh, hiếu vị, biết “nâng một người đứng dậy mà không dẫm lên chân người đó” [Ngạn ngữ phương Tây]. Trong công việc, cán bộ đảng viên phải suy nghĩ cho kỹ, cân nhắc thành công trước mắt và tác động lâu dài. Phải chủ động và sáng tạo trong công việc, biết những điều phải làm, phương pháp phù hợp, biết trù liệu trước những thành quả và rủi ro để lúc nào cũng giữ được bản lĩnh và thế chủ động.Đối với nhân dân, người cán bộ đảng viên phải tận tụy phục vụ người dân, hiểu rằng “Dân nghe theo là mình mạnh” [Hồ_Chí_Minh, Bài nói chuyện của Bác với cán bộ tỉnh Thanh Hóa, 1947], phải hiểu nguyện vọng, tâm lí của dân. Có như vậy mới giúp dân hoàn thành những nhiệm vụ của Đảng và chính phủ giao phó. “Muốn cho dân phục phải được dân tin, muốn cho dân tin phải thanh khiết”[1947]. Đối với đoàn thể, phải trung thành tuyệt đối, bỏ những ham muốn cá nhân đi ngược lại lợi ích của đoàn thể. Không được “báo cáo láo: Làm thành một việc thì phóng đại, thất bại thì giấu đi”.[1947]

Thêm vào đó, theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì “người sức có mạnh mới gánh được nặng, đi được xa, người đảng viên phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Do đó, do đó có thể thấy, các phẩm chất đạo đức có vị trí nền tảng và đóng vai trò quyết định trong đời sống tự thân, đời sống xã hội và công việc của người cán bộ đảng viên

Chính vì vậy, sinh thời, quan tâm lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên là làm sao giáo dục để đội ngũ cán bộ này dù hoạt động trong ngành nghề lĩnh vực nào cũng thấm nhuần đạo đức cách mạng. Người đặc biệt chú trọng đến giáo dục những phẩm chất: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư. Người yêu cầu đảng viên phải luôn trau dồi đức tính khiêm tốn, giản dị, cần kiệm trong lao động, học tập, công tác, có đời tư trong sáng. Giáo dục đạo đức cách mạng cho đảng viên phải chú trọng cả rèn đức luyện tài để họ vừa có đạo đức, vừa có tài, vừa có phẩm chất vừa có năng lực. Có tài phải có đức. "Có tài không có đức tham ô có hại cho Nhà nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì cho ai".

Bác là tấm gương tiêu biểu nhất về rèn luyện đạo đức cách mạng, suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, chịu đựng và chấp nhận mọi nguy nan để tìm đường cứu nước, cứu dân; đồng cam cộng khổ với nhân dân trong kháng chiến, kiến quốc, giành độc lập cho Tổ quốc, mưu hạnh phúc cho đồng bào. Từ tấm gương rèn luyện đạo đức cách mạng của Bác Hồ, chúng ta thấy rằng, việc rèn luyện bền bỉ và luôn có ý thức trau dồi đạo đức cách mạng là việc làm cần thiết và quan trọng bậc nhất đối với cán bộ, đảng viên. Bởi vì, đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.
Lẽ đương nhiên, cán bộ đảng viên, trong cuộc sống và trong công việc khó tránh khỏi sai lầm và khuyết điểm. Vì vậy, cán bộ, đảng viên phải luôn luôn học tập, tu dưỡng để hoàn thiện bản thân và việc làm thường xuyên, việc tu dưỡng đạo đức phải gắn với thực tiễn công tác, lao động, học tập. Rèn luyện mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh như là việc phải rửa mặt hằng ngày mà Bác đã chỉ ra.Vấn đề mấu chốt, quyết định trong giáo dục, rèn luyện đạo đức của người cán bộ, đảng viên là sự tự giáo dục, tự rèn luyện. Bởi vì cái tốt, cái xấu đều có trong mỗi con người. Mà học cái tốt thì khó, vì như "người ta leo núi phải vất vả khó nhọc mới lên đến đỉnh. Học cái xấu thì dễ như ở trên đỉnh chỉ trượt chân một cái là nhào xuống vực sâu". Vì thế việc phấn đấu tu dưỡng của người đảng viên kiên trì hằng ngày, để gạt bỏ những tính xấu như bệnh tham lam, thiếu kỷ luật, gây hại cho Ðảng, cho dân.

Người đã chỉ ra rằng nếu mắc phải bệnh tham lam, người cán bộ, đảng viên không đặt lợi ích của Ðảng, của dân tộc lên trên mà chỉ tự tư, tự lợi, dùng của công làm việc tư; dựa vào thế lực của Ðảng để theo đuổi mục đích riêng của mình, chỉ vun vén cho quyền lợi của bản thân, không cần quan tâm xem điều đó có hại cho dân, cho nước hay không; thậm chí, còn chà đạp lên lợi ích của dân tộc, của nhân dân một khi bị đụng chạm đến quyền lợi cá nhân. Tác hại của bệnh tham lam rất lớn. Nó làm cho công quỹ Nhà nước bị hao mòn, nhân dân căm ghét cán bộ; dân mất lòng tin với Ðảng, Nhà nước. Vì vậy, người có đạo đức cách mạng phải quyết tâm chống tham nhũng, lãng phí. Cán bộ, đảng viên, người có cương vị giữ các trọng trách càng phải nêu gương chống tham nhũng, lãng phí. Biến quyết tâm chính trị chống tham nhũng của Ðảng thành hành động, việc làm thiết thực và cần kíp cho mỗi đảng viên, đặc biệt là trong đội ngũ cán bộ, công chức, nhằm góp phần xây dựng Ðảng, Nhà nước trong sạch, củng cố sức mạnh đất nước.

Ngoài bệnh tham lam, cần đặc biệt chú trọng tự phê bình và phê bình đối với đảng viên và tổ chức cơ sở đảng nhằm ngăn ngừa và chống lại những biểu hiện tiêu cực về đạo đức. Nếu không thực hiện tốt phê bình và tự phê bình, cán bộ đảng viên rất dễ trở thành vô kỷ luật. Bệnh thiếu kỷ luật cũng là căn bệnh hết sức nguy hiểm, do cán bộ, đảng viên đó không chịu rèn luyện trong tổ chức, không đặt mình vào guồng máy hoạt động của tổ chức, vi phạm Ðiều lệ Ðảng, quy định, nguyên tắc Ðảng. Theo Hồ Chí Minh, tất cả những bệnh đó là biểu hiện của bệnh cá nhân chủ nghĩa. Người còn nhấn mạnh, nếu cán bộ, đảng viên mà mắc phải một trong các bệnh này, tức là đồng nghĩa với sự thất bại, tức là hỏng việc; họ sẽ bị nhân dân xa rời.Để thực hiện tốt phê bình và tự phê bình, người cán bộ đảng viên cần phát huy và thực hành dân chủ rộng rãi trong sinh hoạt đảng, góp phần vào việc nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ. Thực hiện tốt việc phân công, hướng dẫn, kiểm tra đảng viên chấp hành nhiệm vụ, phát huy vai trò tiên phong gương mẫu trong công tác, học tập và lối sống, giữ mối liên hệ với quần chúng nơi công tác với chi bộ và nhân dân nơi cư trú.

Trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã giành được thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử. Ðảng đã giáo dục, nâng cao ý thức, nhiệt tình cách mạng cho đội ngũ đảng viên, đồng thời phần đông đảng viên cũng đã cố gắng vươn lên, tự rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng trong điều kiện mới.

Như vậy, có thể thấy vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện. Người nêu yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả ba mối quan hệ với con người: đối với mình, đối với người, đối với việc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Trong bản Di chúc bất hủ, Người viết:“Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
I.2. Một số chuẩn mực đạo đức cơ bản theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Theo Hồ Chí Minh, có thể khái quát những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới là: Trung với nước, hiếu với dân; Yêu thương con người; Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và Tinh thần quốc tế trong sáng.

I.2.1.Trung với nước, hiếu với dân

Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.

Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh nâng lên thành một nội dung mới cao rộng hơn, phù hợp với bối cảnh hiện đại là “Trung với nước hiếu với dân”. “Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.

Bàn cụ thể hơn, chúng ta có thể thấy rằng, về quan hệ đạo đức thì mối quan hệ của mỗi người đối với đất nước, nhân dân và dân tộc mình là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyên thống của Việt Nam và phương Đông. Trước kia, “Trung”là trung quân, là trung thành với nhà vua; trung thành với vua cũng có nghĩa là trung thành với nước, vì vua với nước là một, nước là của vua. Còn “Hiếu” nghĩa là hiếu thảo với cha mẹ, những người đã có công sinh thành, nuôi dưỡng mình.

Kế thừa giá trị chủ nghĩa yêu nước truyền thống và vượt qua những hạn chế của truyền thống đó, Hồ Chí Minh đã sử dụng trung, hiếu và đưa vào nội dung mới, đó là trung với nước, hiếu với dân.

Trong đó, trung với nước nghĩa là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Khái niệm “Nước”ở đây là quốc gia độc lập của dân và dân là chủ nhân của đất nước, khác với khái niệm trước kia cho rằng “Nước”là của vua, chỉ riêng một cá nhân là thiên tử mới có quyền định đoạt vận mệnh đất nước.

Hiếu với dân là phải thương dân, gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc. Người lãnh đạo phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, cải thiện cuộc sống cho người dân và giúp người dân hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình. Như vậy, hiếu với dân thì người cán bộ, đảng viên phải xứng đáng là người “đầy tớ” thật trung thành của nhân dân.

Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nước là nước của dân và dân là người chủ của nước.Vì vậy trung với nước hiếu với dân là thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp dựng nước và giữ nước với con đường đi lên và phát triển đất nước.

I.2.2. Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra phương pháp công tác của người cán bộ, đảng viên là: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.Sự gương mẫu đi đầu, lời nói đi đôi với việc làm mẫu mực là sự thuyết phục, cảm hoá để lôi cuốn nhân dân vào các phong trào cách mạng. Bởi vậy, đảng viên phải làm gương cho nhân dân cả về lời nói và việc làm, để cho dân tin, dân phục, từ đó làm cho dân tin Đảng, yêu Đảng và làm theo chính sách của Đảng và Chính phủ. “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.[Hồ_Chí_Minh, Sao cho được lòng dân, 1945]

Nếu không tự mình làm gương cho dân, không có được lòng tin của dân, không vừa ý dân, thì thì khi xảy ra những biến động chính trị, nhân dân có còn tin yêu và bảo vệ Đảng không? Người xưa từng nói: “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân” [Ngạn ngữ Trung Quốc]. Lịch sử nước ta còn ghi: Vua nhà Hồ không kém phần thông minh, tài giỏi, có nhiều tư tưởng cải cách, nhưng không thuận lòng dân nên cuối cùng chịu mất nước. Bài học thực tiễn đó luôn cảnh báo chúng ta về mối quan hệ hữu cơ giữa người cầm quyền và nhân dân, đối với chúng ta ngày nay là mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Vậy cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư là gì?

Đây chính là phẩm chất đạo đức trung tâm gắn liền với mọi hoạt động hàng ngày của con người.

“Cần” tức là lao động cần cù, siêng năng, cố gắng dẻo dai, làm việc có năng suất, hiệu quả, không lười biếng, không hiệu quả, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".

“Kiệm” là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù. Vì theo Người, “hoang phí là một tội ác” [A.G, 1947].

“Liêm” là liêm khiết, trong sạch, không cậy quyền cậy thế mà đục khoét của dân, "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại.

“Chính”, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.

Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.

Đối với công việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.

“Chí công vô tư”, là ham làm những việc ích quốc, lợi dân, không ham địa vị, không màng công danh, vinh hoa phú quý. Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc". “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ" [Hồ Chí Minh toàn tập, tập 21]. Người chí công vô tư thì lòng dạ thảnh thơi, đầu óc tỉnh táo, sáng suốt. Có chí công vô tư mới nêu cao được chủ nghĩa tập thể, từ bỏ được chủ nghĩa cá nhân.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư có mối quan hệ mật thiết với nhau. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư và ngược lại, chí công vô tư một lòng vì nước, vì dân thì nhất định sẽ được cần, kiệm, liêm, chính.

Cần kiệm liêm chính chí công vô tư là những khái niệm đạo đức cũ được Hồ Chí Minh tiếp thu chọn lọc và đưa vào những yêu cầu, nội dung mới. Người chỉ ra rằng: Phong kiến nêu ra cần kiệm liêm chính nhưng không thể hiện, ngày nay ta đề ra cần kiệm liêm chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân. Cần kiệm liêm chính chí công vô tư là một biểu hiện sinh động cho phẩm chất “Trung với nước hiếu với dân”.

Theo Hồ Chí Minh cần, kiệm, liêm, chính có ý nghĩa rất quan trọng đối mỗi con người. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới” [Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 16]là những đức tính không thể thiếu được của mỗi con người cũng như bốn mùa của trời, bốn phương của đất. Cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tạo nên chất người của mỗi chúng ta.Người viết:

“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông

Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc

Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính”.

[Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 16, 2002]

Hồ Chí Minh không chỉ giải thích nội dung của cần, kiệm, liêm, chính mà Người còn chỉ ra mối quan hệ giữa bốn điều đó. “Cần, kiệm, liêm, chính là gốc rễ của chính. Nhưng một cây có gốc rễ lại cần có cành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người cần phải cần, kiệm, liêm nhưng còn phải chính mới là hoàn toàn” [Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 16].

Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo trình độ văn minh tiến bộ của một dân tộc: “Một dân tộc biết cần, kiệm, liêm, chính là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”[Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 16].

Cần, kiệm, liêm, chính vì vậy là nền tảng của đời sống mới, của thi đua ái quốc là cái cần để làm việc, làm người, làm cán bộ, phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, tổ quốc và nhân loại. Cần, kiệm, liêm, chính là đặc điểm của một xã hội hưng thịnh, và ngược lại đó là biểu hiện của sự suy thoái xã hội.

Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng muốn công cuộc đổi mới ở nước ta tiếp tục giành thắng lợi thì một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu là mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải là một tấm gương thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.

I.2.3. Yêu thương con người

Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ. Những người lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".

Yêu thương con người được thể hiện trong mối quan hệ gia đình, anh em, họ hàng, bè bạn; trong quan hệ với đồng bào cả nước, và với cả nhân loại. Chuẩn mực này đòi hỏi mỗi người phải luôn luôn nghiêm khắc với bản thân mình và rộng rãi, độ lượng với người khác, “tiên trách kỷ, hậu trách nhân” như người xưa răn dạy. Ngoài ra, phẩm chất này còn đòi hỏi thái độ tôn trọng con người, phải biết cách nâng con người lên, chứ không hạ thấp, vùi dập nhau vì lợi ích cá nhân hoặc lợi ích của một nhóm người nhất định. Yêu thương con người còn được thể hiện ở chỗ đối với những người có sai lầm, khuyết điểm nhưng đã nhận rõ khuyết điểm, sai lầm và cố gắng sửa chữa; đối với những người lầm đường lạc lối đã hối cải; đối với những kẻ thù bị bắt, bị thương hoặc đã chịu quy hàng. Chính tình yêu thương đó đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi con người.

Trong thực tế cuộc đời của mình, Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái. Không phân biệt một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người.Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng ta: "Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời". Với tư cách một người đồng chí, Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải yêu thương đùm bọc, giúp nhau cùng tiến bộ. Một người khi đã hoàn thành nhiệm vụ thì phải quay sang hỗ trợ đồng chí của minh. Và để giúp đỡ được nhau, cần “suy nghĩ kĩ càng trước khi hành động”[Người cách mạng mẫu mực, 1962]. Giúp người như tự giúp mình, suy nghĩ cho người kỹ lưỡng như suy nghĩ cho mình, có như vậy mới giúp đỡ nhau cùng tiến tới thành công.

Xuất phát từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin, đặc biệt là từ thực tiễn đấu tranh cách mạng của các dân tộc, Hồ Chí Minh cho rằng trên đời này có nhiều người nhiều công việc nhưng có thể chia thành hai hạng người thiện và ác và hai thứ việc chính và tà. Làm việc chính là người lương thiện làm việc tà là người ác. Từ đó người kết luận: Những người bị áp bức bóc lột những người làm điều thiện thì dù màu da, tiếng nói, chủng tộc, tôn giáo khác nhau, vẫn có thể thực hành chữ “bác ái”, vẫn có thể đại đoàn kết, đại hòa hợp, coi nhau như anh em một nhà.

Tình thương yêu con người ở Hồ Chí Minh không chung chung, trừu tượng kiểu tôn giáo, mà luôn luôn được nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản, dành cho các dân tộc và con người bị áp bức, đau khổ.

Hồ Chí Minh thương yêu con người với một tình cảm sâu sắc, vừa bao la rộng lớn, vừa gần gũi thân thương. Hồ Chí Minh luôn sống giữa cuộc đời và không có cái gì thuộc về con người đối với Hồ Chí Minh lại là xa lạ. Người quan tâm đến tư tưởng, công tác, đời sống của từng người, việc ăn, việc mặc, ở, học hành giải trí của mỗi người dân. Tình thương yêu con người ở Hồ Chí Minh luôn gắn liền với những hành động cụ thể, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho con người.

Trong Di chúc, Người căn dặn toàn Đảng “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, sống với nhau có tình nghĩa nhưng không dĩ hòa vi quý.

I.2.4. Tinh thần quốc tế trong sáng

Tinh thần quốc tế trong sáng là tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa nhân dân Việt Nam với tất cả các dân tộc tiến bộ trên thế giới vì độc lập dân tộc, vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội. Tinh thần này đã được Người nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em".Đây chính là là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.

Tóm lại, bốn phẩm chất đạo đứcnày là những phẩm chất chung, cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới, để vươn tới chân, thiện, mỹ của cuộc sống con người, nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạnh. Bởi muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải có những con người mới xã hội chủ nghĩa, với bốn phẩm chất đạo đức cơ bản trên.

I.3. Một số nguyên tắc xây dựng, rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Để xây dựng một nền đạo đức mới, Hồ Chí Minh đã nêu lên ba nguyên tắc cơ bản để định hướng cho việc rèn luyện của mỗi người, mỗi tổ chức và toàn xã hội, đó là: Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức; Xây đi đôi với chống và Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.

Hồ Chí Minh nêu ra những nguyên tắc cơ bản trong việc rèn luyện đạo đức cách mạng cho người cách mạng và trong việc xây dựng nền đạo đức mới cho toàn xã hội: Việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức ở mỗi con người, cũng như việc xây dựng một nền đạo đức mới trong xã hội không phải là một việc đơn giản, có thể hoàn thành ngay trong một sớm, một chiều, mà đó phải là một quá trình liên tục, thường xuyên lâu dài. Đối với người cách mạng, cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh vạch rõ: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng và càng luyện càng trong” [Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 12].

Rèn luyện đạo đức cách mạng phải dựa trên tinh thần được giác ngộ, sự tự nguyện, dựa vào lương tâm của mỗi người, trên tinh thần tự phê phán và thông qua sinh hoạt tự phê bình và phê bình trong tập thể cùng với sự tác động của dư luận, nhân dân, định hướng tuyên truyền, giáo dục của Đảng và Nhà nước. Trong đó, tự phê bình và phê bình là một phương sách tốt nhất trong rèn luyện đạo đức. Hồ Chí Minh vạch rõ: “Người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm. Có hoạt động, làm việc là có khuyết điểm. Vấn đề là quyết tâm sửa chữa khuyết điểm thông qua phương thức tự phê bình và phê bình có như vậy thì khuyết điểm ngày càng bớt, ưu điểm ngày càng thêm. Đảng viên và cán bộ ngày càng trở nên chân chính cách mạng. Đảng ngày càng phát triển”.

I.3.1. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời

Con người không ai hoàn hảo, ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ tốt, chỗ xấu, ai cũng có cái thiện, cái ác ở trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc bản thân mà phải thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy, thấy rõ cái dở để khắc phục. Vậy nên đối với mỗi người, việc tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong mọi quan hệ xã hội. Không những thế, nguyên tắc tu dưỡng đạo đức suốt đời phải được thường xuyên chăm lo tu dưỡng hàng ngày; phải kiên trì, bền bỉ suốt đời. Tinh thần vượt khó, kiên trì tu dưỡng đạo đức được thể hiện rõ trong bài thơ “Tự khuyên mình” trích trong tập thơ “Nhật ký trong tù” của Người:

"Ví không có cảnh đông tàn,

Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân;

Nghĩ mình trong bước gian truân,

Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng".

[Tự khuyên mình, 1942-1943]

Nguyên tắc này không chỉ đúng với cá nhân mà còn áp dụng trong phạm vi rộng lớn của cả một tổ chức, cả một dân tộc. Người đã vạch rõ: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” [Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 23].

I.3.2. Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức

Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với hành động thì mới có thể đem lại hiệu quả thiết thực cho chính bản thân và có tác dụng đối với người khác. Nếu nói nhiều, làm ít, nói mà không làm, hơn nữa nói một đằng, làm một nẻo thì chỉ đem lại hiệu quả phản tác dụng. Nêu gương về đạo đức có tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống, có ý nghĩa thúc đẩy xã hội phát triển. Trong gia đình, bố mẹ làm gương cho con cái, anh chị làm gương cho em nhỏ; trong nhà trường, thầy cô giáo phải làm gương cho học sinh; trong cơ quan, tổ chức, người lãnh đạo làm gương cho nhân viên, cấp trên làm gương cho cấp dưới; trong xã hội, mỗi người đều có thể làm tấm gương cho người khác, không phân biệt tuổi tác, giới tính, địa vị xã hội; thế hệ đi trước làm gương cho thế hệ đi sau ….Đối với cán bộ, đảng viên, không chỉ nói phải đi đôi với làm mà “Người cách mạng phải luôn luôn nói và hành động một cách có ý thức.”[Minh, Người cách mạng mẫu mực, 1962]Tấm gương đạo đức của Hồ Chủ Tịch là tấm gương sáng ngời cho cả dân tộc, cho các thế hệ người Việt Nam mãi mãi về sau. Bất kể là ai, bất kể tổ chức nào, đã nói, đã hứa thì phải làm cho tốt. Có như vậy mới có thể nêu gương đạo đức. Người căn dăn cán bộ, đảng viên: “Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước. Hô hào dân tiết kiệm, mình phải tiết kiệm trước đã.”

I.3.3. Xây đi đôi với chống

Trong cuộc sống hàng ngày, những hiện tượng tốt – xấu, đúng – sai, cái có đạo đức, cái vô đạo đức luôn tồn tại đan xen nhay, đối chọi nhau thông qua hành vi của con người. Trước những hiện tượng phức tạp và đa chiều như vậy, phải giữ vững đạo đức, vận dụng hiểu biết để thực hiện xây đi đôi với chống, dùng chống để bảo vệ những gì đã được xây. Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới từ trong gia đình đến nhà trường và ngoài xã hội. Những phẩm chất chung, mang tính khái quát, phải được cụ thể hóa chi tiết cho phù hợp với từng đối tượng. Trong việc giáo dục đạo đức mới, phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh trong mỗi con người để mỗi người tự giác nhận thức được trách nhiệm của mình. Trong khi xây dựng, nồi dưỡng những phẩm chất đạo đức mới phải đồng thời chống lại cái ác, cái sai, cái vô đạo đức.

Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc chống chủ nghĩa cá nhân. Một người mang nặng chủ nghĩa cá nhân thì lúc nào cũng nghĩ về bản thân mình, ngại khó, ngại khổ, mất đoàn kết, khó có thể giúp người khác cùng tiến, cùng đạt được nhiều lợi ích như mình, Người coi chủ nghĩa cá nhân là một thứ bệnh nguy hiểm vì từ nó sẽ sinh ra nhiều thứ bệnh khác như thói tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa, tự cao tự đại, chuyên quyền, tham danh, trục lợi.

Trên là một số quan điểm, đạo đức cơ bản của trong Tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong sự nghiệp đổi mới, cần coi trọng xây dựng đạo đức mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đạo đức là mục tiêu và động lực trong phát triển kinh tế - xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện về nền đạo đức mới với các chuẩn mực đạo đức chung và chuẩn mực đạo đức cụ thể của các giai cấp, các tầng lớp, các giới, các lứa tuổi trong xã hội và đặc biệt là các chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên. Việc xây dựng đạo đức mới cần kế thừa những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta, vừa tiếp thu tinh hoa tư tưởng nhân văn, đạo đức của nhân loại, đồng thời noi theo tấm gương nhân văn, đạo đức Hồ Chí Minh để xây dựng những con người Việt Nam có phẩm chất tốt đẹp, nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển, bảo vệ đất nước hiện tại và tương lai. Với tinh thần đó, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, đã vạch ra nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với những đức tính cơ bản nhất đó là:

- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.

- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.

- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.

- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.

Những phẩm chất, năng lực của người đảng viên thống nhất trong 4 nhiệm vụ đã được ghi trong Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam, cùng với 5 chuẩn mực giá trị con người Việt Nam đã được nêu ở trên, đó chính là những chuẩn mực, chỗ dựa để mỗi người đảng viên phấn đấu, rèn luyện phẩm chất đạo đức, trí tuệ, năng lực lãnh đạo và hoạt động thực tiễn, để xứng đáng với danh hiệu là đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện.

II. THỰC TRẠNG ĐẢNG VIÊN TRẺ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

II.1. Tổng quan về đội ngũ Đảng viên trẻ tuổi ở nước ta hiện nay

Ngày nay, tình hình kinh tế - chính trị xã hội trong nước và trên thế giới đang có những biến động mới, sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, sự giao lưu, hội nhập quốc tế càng mở rộng. Cùng với sự chống phá của các thế lực thù địch bằng “diễn biến hoà bình” với các thủ đoạn tinh vi và quyết liệt hơn, đang đặt ra cho cách mạng nước ta những yêu cầu, nhiệm vụ và thách thức mới, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là lực lượng đảng viên trẻ cũng phải có những nhận thức mới cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn mới, phải nêu cao ý thức tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện trong thực tiễn, để nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tri thức khoa học cần thiết và phẩm chất đạo đức, lối sống, phương pháp và tác phong công tác đáp ứng đòi hỏi ngày một cao hơn của tình hình, nhiệm vụ mới. Trong khi đó đội ngũ đảng viên trẻ chủ yếu là những người đang ở lứa tuổi thanh niên họ thường là lớp người hăng hái, tích cực năng động, nhạy bén với cái mới, nhưng lý luận của họ còn thiếu, kinh nghiệm còn ít, họ chưa được trải nghiệm nhiều trong hoạt động thực tiễn. Cho nên trong công tác của họ thường gặp những nhiệm vụ, thách thức mới, những vấn đề phức tạp, khó khăn mà họ phải tự giải quyết, nếu không tích cực tự học tập, tu dưỡng và rèn luyện; không ngừng nâng cao toàn diện cả phẩm chất và năng lực thì sẽ không đủ sức vượt qua để hoàn thành nhiệm vụ của người đảng viên. Vì vậy, quan tâm giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên trẻ của các cấp uỷ Đảng và động viên giúp đỡ họ để nâng cao hơn nữa chất lượng tự học, tự tu dưỡng, rèn luyện của đảng viên là nội dung trọng yếu, rất cần kíp trong công tác xây dựng đội ngũ đảng viên, đặc biệt là đảng viên mới kết nạp trong tình hình mới hiện nay.

Tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện của đội ngũ đảng viên trẻ trong thực tiễn là phương thức chủ yếu và trực tiếp để mỗi đảng viên trẻ bổ sung, bù đắp thêm những thiếu hụt về phẩm chất chính trị, đạo đức, kiến thức, năng lực, kinh nghiệm công tác đáp ứng với sự vận động, phát triển của cách mạng trong giai đoạn mới.

II.2. Ưu điểm và hạn chế trong thực trạng đạo đức cán bộ, đảng viên trẻ

II.2.1. Ưu điểm

Học tập tư tưởng đạo đức của Hồ Chủ tịch, cán bộ đảng viên trẻ nói chung thể hiện nhiều ưu điểm:

Trước hết, mỗi cán bộ, đảng viên tự nhận thức rõ ràng luôn ý thức được phải trung thành với Tổ quốc, với Đảng và kiên trì tu dưỡng, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động trước khó khăn thử thách. Cán bộ, đảng viên trẻ có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, có ý chí vươn lên thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Đối với bản thân, luôn cố gắng thực hiện nếp sống văn minh, cần kiệm, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, biết bảo vệ môi trường, không ngừng học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, thực hiện “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.

Đối với tập thể, cán bộ đảng viên luôn có ý thức kỷ luật cao, tôn trọng tập thể, gắn bó, yêu thương, hoà đồng với đồng nghiệp.

Trước các cuộc vận động vì người nghèo hoặc ủng hộ nhân dân trong nước hoặc nhân dân các nước bạn gặp thảm họa, thiên tai, cán bộ đảng viên luôn đi đầu, khuấy động phong trào thu hút đông đảo đội ngũ thanh niên và lao động.

Nhắc đến ưu điểm nổi bật của cán bộ, đảng viên trẻ không thể không nhắc đến ý thức tích cực và hoạt động đều đặn trong công tác bồi dưỡng, đào tạo cho cán bộ, đảng viên trẻ, thanh niên. Ưu điểm này đạt được nhờ quán triệt tinh thần khắc phục hiệu quả khuyết điểm về đào tạo cán bộ kế cận mà Bác đã nêu trong bài phát biểu tại Đại hội đại biểu Thanh niên Hà Nội ngày 27/9/1945 “Các đồng chí phụ trách thanh niên không chịu đào tạo, dìu dắt thêm những cán bộ mới, tuy những phần tử có thể trở nên cán bộ vẫn không thiếu trong đám thanh niên”. Ngoài bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ, các cơ quan Đảng và chính quyền các cấp còn tích cực đào tạo về tinh thần yêu nước, nhận thức quyền lợi và nghĩa vụ chính trị cho đối tượng dự bị đảng viên, tích cực tìm kiếm và đãi ngộ người tài trong đội ngũ qua các quy chế về khen thưởng cụ thể trong mỗi ngành, mỗi lĩnh vực.

Tóm lại, các ưu điểm nổi bật của đội ngũ cán bộ, đảng viên trẻ nước ta hiện nay là thấm nhuần đạo đức cách mạng, “vừa hồng vừa chuyên”, nâng cao trách nhiệm xã hội và “luôn tư duy đúng, định hướng đúng và hành động đúng”.

II.2.2. Hạn chế

Trong những năm qua, Việt Nam đã tích cực phát triển kinh tế thị trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế và chịu nhiều ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hóa. Bên cạnh những mặt tích cực, những tác động tiêu cực của nó đã xâm nhập vào đời sống văn hóa, tư tưởng của người dân, trong đó có đội ngũ cán bộ đảng viên.

Các hạn chế chung trong thời đại mở cửa nền kinh tế thị trường và toàn cầu hóa đã được nêu rõ trong Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp…làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước”.

Suy suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay thể hiện ở nhiều mức độ. Hiện trạng này được bộc lộ cụ thể từ việc ngại học tập, nghiên cứu, tự bằng lòng với những nhận thức đơn giản, mơ hồ về chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta, không chấp hành đầy đủ và nghiêm túc kỷ luật của Đảng và kỷ cương của Nhà nước đến thiếu lóng tin vào thành quả cách mạng và các giá trị truyền thống dân tộc. Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị cán bộ toàn quốc về việc quán triệt triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận xét về các biểu hiện cụ thể trong suy thoái tư tưởng chính trị và đạo đức là rất khó nhận biết, các phẩm chất đạo đức bị biến dạng, “có khi yêu bảo là ghét, ghét bảo là yêu … nhiều khi trong đầu nghĩ thế nhưng lại không nói thế, nói thế mà lại không làm thế”.

Ngoài tư tưởng chính trị không kiên định, chúng ta có thể nhận thấy rất rõ qua các phương tiện thông tin đại chúng hàng ngày trong những năm gần đây có nhiều vụ việc vi phạm đạo đức đã xảy ra, thể hiện những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc đang bị xói mòn, suy giảm nghiêm trọng làm người dân bất bình và hoang mang, giảm lòng tin đối với Đảng. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống thể hiện rõ trong lối sống ích kỷ theo chủ nghĩa cá nhân, tâm lý tiêu dùng sống vội, lối sống đề cao vật chất, từ đó dẫn đến các tệ nạn hối lộ, đút lót, bòn rút của công, tiền hóa các giá trị tinh thần, văn hóa, văn học, nghệ thuật. Đồng chí Tổng Bí Thư đã nhắc lại câu vè của người dân nói về cán bộ, đảng viên hiện nay “Họp thì có người ghi, đi thì có người chở, ở thì có người chăm ...”, về nạn hối lộ, đút lót “đi nặng thì về nặng, đi nhẹ thì về nhẹ, đi không thì về không”, về 7 thứ chạy “cán bộ ta chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy chỗ, chạy bằng cấp, chạy thi đua, chạy dự án”, trong công tác cán bộ thì “thứ nhất là quan hệ, thứ nhì là tiền tệ, thứ ba là hậu duệ, thứ tư mới đến trí tuệ”.

Qua điều tra xã hội học về các biểu hiện suy thoái đạo đức và chiều hướng tăng giảm năm 2011, mức độ suy thoái đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên đang có chiều hướng gia. Cụ thể, chúng ta xem xét bảng dưới đây

Hình: Các biểu hiện suy thoái đạo đức và chiều hướng tăng giảm

STT

Các biểu hiện

Tăng lên

[%]

Như cũ

[%]

Giảm đi

[%]

Khó trả lời

[%]

1

Tham nhũng, lãng phí

42

26

29

3

2

Lối sống thực dụng, hưởng thụ, sa đọa

38

25

31

6

3

Cơ hội, chụp giật

36

34

23

7

4

A dua, xu nịnh

30

43

20

7

5

Dĩ hòa vi quý trong đấu tranh, phê bình

28

45

20

7

6

Bè phái, cục bộ

26

39

28

7

7

Nói nhiều, làm ít

26

40

26

8

8

Thiếu công khai, minh bạch

22

38

32

7

9

Đố kị với người tài

21

41

30

8

10

Quan liêu, xa rời nhân dân

21

33

38

8

11

Gian lận, dối trá, đạo đức giả

19

40

31

9

12

Giàu thì ghen, [nghèo] hèn thì chê

16

40

33

11

13

Sống thiếu lí tưởng, hoài bão

16

35

38

11

Nguồn: [PGS,TS. Vũ Văn Phúc, PGS, TS.Ngô Văn Thạo, 2012]

Các biểu hiện suy thoái đạo đức trong bảng trên không chỉ đi ngược lại các giá trị đạo đức và lối sống truyền thống của người Việt mà còn đi ngược lại các chuẩn mức và nguyên tắc đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đáng chú ý, mặc dù các biểu hiện sống thiếu lí tưởng hoài bão, xa rời nhân dân, thiếu công khai minh bạch có chiều hướng giảm mạnh [trong khoảng từ 32 % đến 38% ], nhưng các biểu hiện tham nhũng, lãng phí của công, sống sa đọa, thực dụng có mức tăng cao [trong khoảng từ 38% đến 42%]. Các biểu hiện này đa số là các bệnh thuộc về chủ nghĩa cá nhân.Ngoài ra, biểu hiện “nói nhiều, làm ít” vẫn đang tồn tại ở mức cao, chiếm 40%.

Ngoài ra, theo điều tra xã hội học [3000 phiếu chia làm 2 đợt], mức độ nghiêm trọng của suy thoái đạo đức giảm dần theo cấp công tác như sau: cán bộ cấp Trung ương 34,1%; cán bộ cấp tỉnh 31,6%; cán bộ cấp huyện 18,5% và cán bộ cấp xã, phương 26%. [PGS,TS. Vũ Văn Phúc, PGS, TS.Ngô Văn Thạo, 2012]

Như vậy, có thể khái quát thực trạng suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay như sau: Hiện tượng suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên có xu hướng tăng cả về số lượng và phạm vi, từ chỗ chỉ có “một bộ phận” đến nay đã diễn ra ở “một bộ phận không nhỏ”, trong đó có cán bộ, đảng viên và cả những cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Hiện tượng nói nhiều, làm ít, chỉ thích nghe thành tích, không chịu đối mặt với khuyết điểm còn xảy ra ở không ít cán bộ đảng viên, trái với các nguyên tắc và phẩm chất đạo đức mà Hồ Chủ tịch đã xác định. Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân đang gia tăng và không chỉ ở đảng viên trẻ, mà còn biểu hiện ở cả trong một bộ phận cán bộ nắm quyền, tài sản công và thông tin.

Trước thực trạng các khuyết điểm nói chung của đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, có thể đúc kết một số điểm hạn chế của đội ngũ cán bộ, đảng viên trẻ như sau:

Thứ nhất, còn một số số đảng viên trẻ chưa ham học hỏi, chưa chủ động sáng tạo trong bồi dưỡng mở mang kiến thức chuyên môn và bồi dưỡng lí luận chính trị. Một số đồng chí còn nhận thức chưa thấu đáo về các nguyên tắc đạo đức của Hồ Chủ tịch và lúng túng trong việc vận dụng các phẩm chất, nguyên tắc đạo đức của người cách mạng vào cuộc sống và công việc hiện đại. Một số đồng chí đảng viên của đơn vị có trình độ chuyên môn tốt và nhiều cống hiến nhưng còn dè dặt, làm được nhưng chưa nói được, dẫn đến những tấm gương tốt trong đạo đức và công việc chưa được nhân rộng trong tập thể.

Thứ hai, biện pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ đảng viên trẻ, tuy được tiến hành thường xuyên nhưng phương pháp giáo dục còn đơn điệu, còn thiếu biện pháp cụ thể gợi mở cho đảng viên tự kiểm điểm, tự rèn luyện.

Bồi dưỡng đạo đức cách mạng là nhiệm vụ cơ bản thường xuyên và quan trọng của công tác cán bộ. Trong đó, các cán bộ, đảng viên trẻ cần được tăng cường bồi dưỡng đạo đức cách mạng liên tục, sâu sắc và phải có những phương pháp mới phù hợp với tình hình hiện nay, vì những yêu cầu và đặc thù phát triển kinh tế xã hội trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam hiện nay, người cán bộ, đảng viên đứng trước những đòi hỏi mới và nhiệm vụ mới. Đó là nhiệm vụ tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; là yêu cầu giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện đổi mới hệ thống chính trị, dân chủ hóa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa; là nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trong điều kiện mở cửa, hội nhập quốc tế và khu vực. Tình hình, nhiệm vụ đó đòi hỏi người cán bộ, đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, có phẩm chất, đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ. Đây đã và đang là vấn đề cấp bách của Đảng ta, đồng thời đó cũng chính là động lực mạnh mẽ để thực hiện thành công những nhiệm vụ cách mạng mới trong giai đoạn hiện nay.

III. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN TRẺ TRONG THỜI ĐẠI CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

III.1. Yêu cầu đặt ra đối với đạo đức cán bộ, đảng viên trong bối cảnh mới mới

Đất nước ta đang bước vào một thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nhiều biến động khôn lường về kinh tế, chính trị và xã hội trong khu vực và trên phạm vi thế giới. Trong đó, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng tiềm ẩn những diễn biến phức tạp, bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao tiếp tục gia tăng.

Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hóa trong quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển, các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế. Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học – công nghệ phát triển mạnh mẽ. Cuộc đấu tranh giai cấp của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội ngày càng mạnh mẽ. Mỹ đã chuyển trọng tâm chiến lược sang khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, trở lại Đông Nam Á; các tranh chấp trên biển Đông ngày càng gay gắt.

Trong nước, sau những năm đổi mới, thế và lực của đất nước lớn hơn nhiều so với trước. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quan liêu, tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng...

Trước bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều biến động, để bảo vệ tổ quốc, phát huy sức mạnh của dân tộc đòi hỏi phải có bản lĩnh cách mạng vững vàng. Điều đó cũng có nghĩa là người cán bộ, đảng viên đóng vai trò nòng cốt trong sức mạnh của Đảng ta, của dân ta. Thực tiễn chứng tỏ rằng, mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi thời kỳ cách mạng cần có đội ngũ cán bộ, có khả năng đảm đương được nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Đó là đòi hỏi, là yêu cầu khách quan của cuộc sống. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Vì vậy, Đảng phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”.

Kế thừa tư tưởng đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, qua mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng ta đều coi trọng công tác cán bộ, coi cán bộ là “cái gốc” của mọi công việc, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Đặc biệt trong thời kỳ mới, công tác cán bộ gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Trong đó, vấn đề giáo dục lý tưởng, bản lĩnh chính trị, đạo đức lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên được đặt lên hàng đầu.

Trước thực trạng đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên nói chung, trong thời gian tới, Đảng ta xác định yêu cầu cơ bản là: “Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, lâu dài của cán bộ, đảng viên, của các chi bộ, tổ chức đảng và các tầng lớp nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực sự là một tấm gương về phẩm chất đạo đức, lối sống. Cán bộ cấp trên phải gương mẫu trước cán bộ cấp dưới, đảng viên và nhân dân” [Văn kiện đại hội đảng XI, 2012].

Ngoài ra, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, tại Đại hội XI, Đảng ta chủ trương “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ. Thực hiện tốt chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ… Nâng cao chất lượng công tác cán bộ, bồi dưỡng cán bộ; khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp. Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ… Không bổ nhiệm cán bộ không đủ đức, đủ tài, cơ hội chủ nghĩa…”. Trong đào tạo, bồi dưỡng, Đảng ta coi trọng cả đức và tài, trong đó đức là gốc, là nền tảng của nhân cách cán bộ, đảng viên.

Để thực hiện được yêu cầu mà Đảng ta đã xác định, tại mỗi cơ sở cần xác định được các ưu điểm về vấn đề đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong cơ quan để phát huy, nhân rộng và quan trọng hơn cả, xác định được các nguyên nhân gây ra những yếu kém, sai lệch trong đạo đức của đội ngũ để đưa ra phương hướng điều chỉnh và nâng cao đạo đức cho cán bộ, đảng viên.

Xét về nguyên nhân khách quan và chủ quan của hiện tượng suy thoái tư tưởng, đạo đức, tư tưởng chính trị, Đảng ta đã xác định một số nguyên nhân cơ bản như: [i] Nhận thức và hành động chưa đúng, chưa đầy đủ về nhiệm vụ xây dựng Đảng, [ii] Thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa cá nhân dẫn đến phạm phải các tệ nạn, các thói hư tật xấu… [iii] Nguyên tắc tập trung dân chủ bị buông lỏng, chưa nghiêm khắc và tự giác thực hiện tự phê bình và phê bình, [iv] Công tác tuyên truyền giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cho cán bộ, đảng viên chưa phong phú, chưa đủ sức thuyết phục; [v] Ở cấp độ tổ chức, công tác giám sát, đánh giá thực hiện chưa đủ ráo riết, sâu sát; và [v] Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách pháp luật chưa thích kịp thời với những biến động trong nước và quốc tế.

Như vậy, trước bối cảnh trên và những định hướng của Đảng, những yêu cầu đặt ra về phẩm chất đạo đức mới của cán bộ, đảng viên hiện nay gồm 4 điểm chính sau đây.

Thứ nhất, người cán bộ, đảng viên phải có tinh thần yêu nước sâu sắc, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng, tích cực góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Kiên quyết và dũng cảm đứng lên đấu tranh chống lại những biểu hiện xa rời mục đích của Đảng.

Thứ hai, người cán bộ, đảng viên phải chống chủ nghĩa cá nhân, thực hiện các chuẩn mực đạo đức cơ bản “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, “Cần” có chỉ có nghĩa là siêng năng lao động mà còn là lao động đúng kỷ luật, có trách nhiệm, minh bạch, có tác động tốt đối với bản thân và quần chúng. “Kiệm” không chỉ là tiết kiệm thời giờ, tiền bạc cá nhân, mà phải áp dụng công nghệ mới để tăng cường hiệu quả công việc, giảm tiêu dùng những nguồn tài nguyên không thể tái chế, bảo vệ của công. “Liêm” nghĩa là không tham ô, không phá hoại, tránh tư tưởng chủ nghĩa cá nhân “không ăn thì đạp đổ”. “Chính” là chính trực, nhưng ngoài ra còn là giữ vững lập trường, dám nghĩ dám làm, không ba phải “gió chiều nào che chiều ấy”. “Chí công vô tư” trong thời đại hiện nay nghĩa là mọi suy nghĩ và hành động của người cán bộ, đảng viên phải trước hết vì mục tiêu cao cả là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân, phải “đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quân chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân”. [Hồ_Chí_Minh, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 12]

Thứ ba, người cán bộ đảng viên luôn luôn khiêm tốn, ham học hỏi, nỗ lực học tập không ngừng để nâng cao trình độ chuyên môn, đặc biệt, các cán bộ đảng viên trẻ phải nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực dự báo, kiểm tra và phát hiện vấn đề, năng lực xây dựng hoặc tham gia xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện và nhất là phải tự giác rèn luyện phong cách khoa học và dân chủ.

Cuối cùng là, người cán bộ, đảng viên phải có ý thức kỉ luật, ý thức tự phê bình cao. Đây là vũ khí sắc bén cho sự tiến bộ của người cách mạng và tăng cường đoàn kết nội bộ Đảng. Hồ Chủ tịch luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên “không nên sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa và để sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng lắng nghe quần chúng phê bình và thật thà phê bình” [Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, 2011]. Đây là vũ khí để đấu tranh giữa cái lạc hậu và cái tiến bộ, giữa cái cũ và cái mới, giữa đạo đức cách mạng và chủ nghĩa cá nhân.Người cũng đã viết “Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn vì nó phá từ trong phá ra. Vì vậy, ta phải ra sức đề phòng những kẻ địch đó, phải chữa hết những bệnh đó.”[Sửa đổi lề lối làm việc, 1947]

III.2. Phương hướng vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào giáo dục cán bộ, đảng viên đáp ứng nhu cầu mới

Như Ăng-ghen đã chỉ rõ: “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết vè đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ” [C.Mác và Ph,Ăng-ghen: Toàn tập, Tập 20, 1995]. Đạo đức không tự sinh ra mà là sản phẩm của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế - xã hội.

Căn cứ trên yêu cầu về mặt đường lối của Đảng và những nguyên nhân khách quan và chủ quan gây ra những hạn chế, yếu kém trong đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, những yêu cầu khách quan từ xu hướng toàn cầu hóa và bối cảnh quốc tế ảnh hưởng đến các phẩm chất đạo đức của người cán bộ, đảng viên, phần tiếp theo của đề tài này sẽ đề cập đến phương hướng vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào giáo dục cán bộ, đảng viên đáp ứng nhu cầu mới.

Nghị quyết số 12/NQ-TW, Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XI ngày 16/01/2012 đã đưa ra bốn nhóm giải pháp ngăn chặn hiện tượng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên hiện nay.

-Nhóm thứ nhất: Nhóm giải về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cấp trên;

-Nhóm thứ hai: Nhóm giải pháp về tổ chức cán bộ và xây dựng đảng;

-Nhóm thứ ba: Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách;

-Nhóm thứ tư: Nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng

Ngoài báo cáo tại Hội nghị, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn nhấn mạnh thêm giải pháp giáo dục, giáo dục để “làm chuyển biến nhận thức sâu sắc trong toàn Đảng, trước hết trong cấp ủy, lãnh đạo các cấp về tính nghiêm trọng và nguy cơ của tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống và tệ quan liệu, tham nhũng, lãng phí đối với sự ổn định, phát triển của đất nước”. Ngoài ra, “trong giáo dục phải hết sức coi trọng về chất lượng; thường xuyên giáo dục về tư tưởng chính trị, nhân cách và lối sống cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là giáo dục cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và cán bộ, đảng viên hoạt động trong các lĩnh vực có môi trường dễ làm hư hỏng.”

Như vậy, từ 4 nhóm giải pháp được Nghị quyết cụ thể hóa thành 20 vấn đề và ba nội dung giải pháp đã được Tổng Bí thư nhấn mạnh nhằm triển khai thực hiện hiệu quả, có thể xác định 2 phương hướng chính trong quá trình vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào nâng cao đạo đức cán bộ, đảng viên trẻ như sau:

Thứ nhất là, giáo dục, bồi dưỡng nhận thức cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ cấp ủy, lãnh đạo kế thừa và phát huy các giá trị, phẩm chất về đạo đức cách mạng gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nhấn mạnh tính nghiêm trọng và nguy cơ của tình trạng suy thoái đạo đức của cán bộ đảng viên đối với người dân và đối với sự ổn định, phát triển của đất nước.

Song song với việc giáo dục, bồi dưỡng nhận thức về các phẩm chất đạo đức truyền thống cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu để kịp thời tổng kết, phát hiện ra các phẩm chất đạo đức cần thiết cho người cán bộ, đảng viên, nhất là đối tượng hoạt động trong ngành cơ quan, đơn vị, để phù hợp với thời đại mới

Thứ hai là, tăng cường hơn nữa hiệu quả và chất lượng thực hiện công tác giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên theo gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Trong 3 phương hướng nêu trên, phương hướng thứ nhất giúp ta nhìn có cái nhìn lịch đại xuyên suốt theo lịch sử, nhìn lại quá khứ, đúc rút ra tinh hoa đạo đức truyền thống của dân tộc, của người làm cách mạng để tiếp tục phát huy thế mạnh. Phương hướng thứ hai đòi hỏi phải có cái nhìn bao quát theo chiều ngang, đánh giá được các điều kiện trong nước và nước ngoài, các thế mạnh và hạn chế nội tại của đội ngũ để kịp thời xác định được các phẩm chất đạo đức mới mà người cán bộ, đảng viên cần phải có trong thời đại mới để làm nền tảng xây dựng sự nghiệp, cuộc sống cá nhân và góp phần vào công cuộc ổn định kinh tế - chính trị - xã hội của nước nhà trước những biến chuyển ẩn chứa nhiều nguy cơ của khu vực và trên thế giới. Phương hướng thứ ba chú trọng vào chất lượng giáo dục và hiệu quả công tác tổ chức, thực hiện, giám sát các hoạt động giáo dục, bồi dưỡng đạo đức. Để cụ thể hóa ba phương hướng này trong các phong trào, hoạt động tại Hội sở, trước hết mỗi cán bộ, đảng viên phải đoàn kết, kiên trì, bám sát các chuẩn mực đạo đức cơ bản theo tư tưởng Hồ Chí Minh và thực hiện các nguyên tắc “Tu dưỡng đạo đức suốt đời”, “Xây đi đôi với chống”, nhất là “Nói đi đôi với làm” và cán bộ lãnh đạo, đảng viên phải “nêu gương về đạo đức”.

II.2.1.Đề xuất một số chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên trẻ

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định: “Đa số cán bộ, đảng viên phát huy vai trò tiên phong, năng động, sáng tạo, giữ gìn phẩm chất đạo đức”. Chính yếu tố con người sẽ tạo ra sự khác biệt và quyết định sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Khi vốn, công nghệ giữa các cơ quan, đơn vị tương đồng, thì khách hàng sẽ đến với cơ quan, đơn vị nào có nhân viên cơ quan, đơn vị phục vụ tốt hơn, phong cách ứng xử văn minh hơn. Điều đó thể hiện đạo đức nghề nghiệp của cán bộ Ngân hàng và càng khẳng định được vị thế, thương hiệu của cơ quan, đơn vị. Ngoài ra, việc tiếp tục hoàn thiện phong cách văn minh, tiên tiến đáp ứng yêu cầu mới là một vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội nói chung và của cơ quan, tổ chức mà các Đảng viên trẻ đang phục vụ. Cán bộ, đảng viên nói chung, và cán bộ, đảng viên trẻ nói riêng cần thực hiện tốt một số chuẩn mực đạo đức cơ bản của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh như sau:

-Chấp hành chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, tuân thủ qui trình nghiệp vụ.

-Đoàn kết, tôn trọng và tin cậy lẫn nhau; khiêm tốn trong mọi quan hệ;

-Dân chủ, hợp tác hướng tới sự phát triển bền vững.

-Giữ uy tín, danh dự cho ngành nghề, cơ quan đơn vị, lãnh đạo và đồng nghiệp.

-Làm việc năng động - chuyên nghiệp - hiệu quả

II.2.2. Đối với đồng nghiệp

Có tinh thần hợp tác trong thực hiện công việc, Biết lắng nghe, quan tâm, thông cảm, chia sẻ và học hỏi đồng nghiệp.Trân trọng những góp ý, phê bình của đồng nghiệp. Có thái độ khách quan, chân thành khích lệ và góp ý với đồng nghiệp. Tôn trọng những quan điểm riêng và cuộc sống riêng tư của đồng nghiệp. Không có hành vi làm tổn hại đến uy tín và danh dự của đồng nghiệp. Bảo vệ uy tín, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể. Thẳng thắn trao đổi chân thành với đồng nghiệp khi có bất đồng để tìm cách giải quyết. Mềm mỏng trong cách xử lý bất đồng với đồng nghiệp. Lắng nghe ý kiến đồng nghiệp và tìm hiểu nguyên nhân để cùng tìm giải pháp phù hợp.

Đối xử bình đẳng với đồng nghiệp. Khách quan, thận trọng khi nhận xét đánh giá về đồng nghiệp. Không vận động, lôi kéo người khác thực hiện những việc gây mất đoàn kết, làm phương hại đến lợi ích của người khác. Không nói xấu đồng nghiệp, làm mất uy tín, danh dự của đồng nghiệp.

II.2.3. Đối với các thế hệ cán bộ đi trước và thế hệ tương lai

Trân trọng những truyền thống tốt đẹp, cơ quan, đơn vị có được ngày nay là sự kết tinh công sức của nhiều thế hệ đi trước. Phát huy những thành quả và truyền thống tốt đẹp của các thế hệ trước để lại, coi đó là cội nguồn của sự phát triển cơ quan, đơn vị trong mọi thời kỳ và lớp cán bộ đi sau phải phát huy.

Ăn quả nhớ người trồng cây: Trân trọng những thành quả do thế hệ trước đã tạo nên, kính trọng và biết ơn những cán bộ đi trước đã tạo dựng nền móng vững chắc cho sự phát triển của xã hội và quốc gia.

Quan tâm, kính trọng đối với các thế hệ cán bộ đi trước, chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần và sức khoẻ của những cán bộ đã công tác trong đơn vị mình. Đơn vị và cá nhân tổ chức thăm hỏi, động viên, chia sẻ khó khăn với gia đình và cá nhân cán bộ đã nghỉ hưu. Giúp đỡ, chăm lo đời sống gia đình cán bộ đã nghỉ hưu trong điều kiện và chế độ cho phép.

Đối với thế hệ tương lai, phải tạo điều kiện tốt nhất để truyền thụ kiến thức, kinh nghiệm trong chuyên môn, và thường xuyên bồi dưỡng lý luận chính trị, giúp hình thành bản lĩnh cách mạng.

III.2.4. Đối với công việc

Thực hiện đúng và đầy đủ các quy định, quy trình nghiệp vụ công việc. Có ý thức tổ chức kỷ luật và trách nhiệm trong công việc. Thực hiện nghiêm chỉnh nội quy của cơ quan, giữ gìn tài sản của cơ quan, đơn vị. Thái độ làm việc nghiêm túc, nhiệt tình, không ngại khó. Không chây lười trong công việc, trốn tránh trách nhiệm hoặc thoái thác nhiệm vụ, Không trì hoãn thực hiện nhiệm vụ. Làm việc khoa học, chuyên nghiệp, năng động và có trách nhiệm. Có kế hoạch cụ thể trong triển khai công việc. Thao tác, xử lý công việc nhanh, chính xác, có hiệu quả. Bố trí, sắp xếp nơi làm việc gọn gàng, sạch sẽ, khoa học. Không ngừng học hỏi, trau dồi kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ. Chủ động hoàn thành mục tiêu và kế hoạch được giao. Không ngừng sáng tạo, có tráchnhiệm, phối hợp chặt chẽ với các đồng nghiệp và các bộ phận khác để đạt được hiệu quả công việc cao nhất. Không để tình cảm, cảm xúc cá nhân chi phối công việc.

Tham gia nhiệt tình, có hiệu quả các công việc chung, Có tinh thần đóng góp, tham gia nhiệt tình, đầy đủ và tích cực vào các công việc và hoạt động chung. Thẳng thắn góp ý và tiếp thu những đóng góp của tập thể, cá nhân.

Đây chính là những nguyên tắc cơ bản nhất để cán bộ, đảng viên ngành Ngân hàng “dĩ bất biến”, “ứng vạn biến” trước mọi tình huống để đạt hiệu quảcao nhất.

III.3. Đề xuất các biện pháp cụ thể giáo dục cán bộ, Đảng viên trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sẽ góp phần to lớn trong việc khắc phục chủ nghĩa cá nhân, bệnh kinh nghiệm, giáo điều, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và là một trong những giải pháp quan trọng để ngăn chặn sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống đang diễn ra ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay.

Tại Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: Xây dựng Đảng thực sự trong sạch cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta hiện nay.

Biện pháp 1: Tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng kết hợp với giáo dục văn hóa, pháp lý cho cán bộ đảng viên trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Cần có biện pháp giáo dục cho cán bộ, đảng viên thấm nhuần niềm tự hào về công việc của họ, lòng tự trọng nghề nghiệp và ý nguyện được hợp tác trong các biện pháp làm giảm sự tiếp xúc của học với khả năng tham nhũng.

Tệ tham nhũng rất dễ xảy ra ở những nơi mà đạo đức hay lòng tự trọng nghề nghiệp thấp và nơi mà các nhân viên không có niềm tự hào về danh tiếng của ngành. Tương tự, tham nhũng dễ nảy sinh ở các nơi mà các tập tục nội bộ khuyến khích, che dấu sự vi phạm và nơi có sự không nhất quán giữa các quy tắc ứng xử bên ngoài và những hành vi ứng xử đã được chấp nhận phổ biến.

Để phòng ngừa mọi hành vi tiêu cực, cán bộ, đảng viên trong đơn vị cần xác định được những lĩnh vực công tác có tính rủi ro cao và gợi ý những thay đổi đối với các thông lệ làm việc hiện hành. Sự ủng hộ hoàn toàn của người đứng đầu đơn vị là nhân tố hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định cho sự thắng lợi của công tác này.

Chủ động tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội nhân đạo, chia sẻ những khó khăn với cộng đồng. Tôn trọng, hoà đồng, giữ gìn và xây dựng văn hoá của địa phương. Không tài trợ cho những hoạt động gây bất lợi cho cộng đồng, môi trường, tác động xấu tới sự phát triển bền vững của xã hội. Tự nguyện tham gia tài trợ cho hoạt động của cộng đồng.

Cán bộ, nhân viên trẻ cần tuân thủ mọi quy định pháp luật, đạo đức trong công việc dù ở khối tư nhân hay khu vực nhà nước. Cụ thể là:

-Chấp hành mọi chủ trương, đường lối, pháp luật của Nhà nước và của Ngành với trách nhiệm cao nhất;

-Không vi phạm pháp luật, tuân thủ các quy định, quy trình, thủ tục của cơ quan, đơn vị hiện đang công tác;

-Không làm giả mạo, làm sai lệch giấy tờ, sổ sách, hay hồ sơ của cơ quan, đơn vị;

-Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật phải có trách nhiệm thông báo kịp thời với người có thẩm quyền xử lý;

-Đáp ứng các yêu cầu thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý theo quy định;

-Thường xuyên cập nhật, tìm hiểu phổ biến các chính sách, quy định có liên quan của Nhà nước và Ngành đến cán bộ;

-Phát hiện và tham gia góp ý những bất cập trong quy chế, quyết định, liên quan đến công việc;

-Phát hiện và đề xuất những sáng kiến tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của cơ quan đơn vị hiện đang công tác.

Biện pháp 2: Đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền tư tưởng “tận trung với nước, tận hiếu với dân”, nâng cao nhận thức về trách nhiệm đối với Tổ quốc, với nhân dân

Cuộc đời Hồ Chí Minh là tấm gương “tận trung với nước, tận hiếu với dân”, suốt đời chăm lo cho nước, cho dân. Việc đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền tư tưởng “tận trung với nước, tận hiếu với dân” của Bác Hồ trong giai đoạn hiện nay sẽ khuyến khích mỗi cán bộ, đảng viên tuyệt đối trung thành với đất nước, nhân dân, đặt độc lập dân tộc, chủ quyền và lợi ích của quốc gia lên trên hết.

Để học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là người công bộc, tận tụy trung thành của nhân dân thì mỗi cán bộ, công chức phải hoàn thành nhiệm vụ của mình, làm tốt những việc liên quan đến đời sống của nhân dân. Không có sự nhầm lẫn giữa trọng trách được tổ chức giao phó với quyền lực cá nhân để rồi mua quyền, chạy quyền tham quyền cố vị. Khi có quyền mà thiếu lương tâm sẽ biến thành sâu mọi đục khoét dân,“dĩ công vi tư”. Bác Hồ đã cảnh báo: “Cậy thế mình trong ban này, ban nọ, rồi ngang tàng phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân”

Biện pháp 3: Kết hợp chặt chẽ giữa tổ chức, hướng dẫn với động viên, kiểm tra, giám sát việc làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

Trước yêu cầu tăng cường công tác tư tưởng trong tình hình mới, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX đã quyết định triển khai chỉ đạo điểm cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, đúc rút kinh nghiệm để tiến hành cuộc vận động lớn trong toàn Đảng về vấn đề này sau Đại hội X của Đảng. Đây là một chủ trương lớn, vừa mang tính cấp bách trong bối cảnh tình hình hiện nay, vừa có ý nghĩa lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn xã hội, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, thanh niên, học sinh, nâng cao đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Gắn tính tự giác học tập, rèn luyện của mỗi cá nhân với sự đôn đốc, kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng và nhân dân.

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, mỗi người đảng viên cần thực hiện lời khuyên của Người "dù công tác to hay nhỏ, địa vị cao hay thấp, ở đâu cũng phải làm gương mẫu cho quần chúng". Bởi lẽ, muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước, phải xung phong làm gương mẫu. Ðiểm nổi bật trong tư tưởng đạo đức và hành vi đạo đức của Bác Hồ là yêu thương, kính trọng nhân dân, hòa với nhân dân, đoàn kết, tổ chức nhân dân thực hiện những mục tiêu của cách mạng, đem lại lợi ích cho nhân dân.
Vì thế, hiện nay giáo dục, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của người đảng viên là phải hòa mình với nhân dân, làm cầu nối giữa dân với Ðảng để hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, làm cho dân tin, tổ chức tuyên truyền vận động quần chúng hăng hái thực hiện chính sách và nghị quyết của Ðảng.

Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh hướng vào việc nâng cao vai trò tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ chốt trong các cơ quan nói chung và trong Hội sở nói riêng cần xây dựng kế hoạch cá nhân, tự giác đề ra chỉ tiêu phấn đấu thiết thực, định kỳ báo cáo trước chi bộ, cơ quan. Các tập thể Đảng, chính quyền, đoàn thể xây dựng chương trình hành động, giúp đỡ, giám sát và kiểm tra việc tự giác làm theo của cán bộ, đảng viên. Định kỳ yêu cầu các cá nhân báo cáo kết quả những việc đã làm theo.

Trong sinh hoạt Ðảng quan tâm nêu gương tổ chức đảng, đảng viên trong việc nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, ngăn ngừa suy thoái đạo đức, chống tham nhũng, lãng phí. Ðồng thời xử lý nghiêm tổ chức đảng, đảng viên vi phạm kỷ luật Ðảng, để củng cố, chỉnh đốn Ðảng. Xây dựng cơ chế và những quy định khả thi, quản lý chặt chẽ đối với các đảng viên có quan hệ nhiều đến tiền bạc, hàng hóa, tài sản của Nhà nước, của nhân dân, thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra của Đảng và giám sát của nhân dân.

Việc rèn luyện cũng không phải chỉ qua một lần, một đợt học tập hoặc thực tế mà xong, rèn luyện đạo đức là công việc của cả đời. Giáo dục đạo đức cho con người bằng tự nêu gương và nêu những gương sáng. Người phân tích: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Cho nên nói thì phải làm, nói ít làm nhiều, tránh nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói một đằng làm một nẻo.

Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật. Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ”. Người coi đó là một cách thiết thực để kỷ niệm ngày thành lập Đảng và cũng là một việc làm cần thiết để giúp tất cả cán bộ, đảng viên đều tiến bộ, góp sức nhiều hơn nữa cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

Biện pháp 4: Hiện thực hóa và quyết tâm tổ chức là “người công bộc, tận tụy trung thành của nhân dân” trong tất cả cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trong từng cơ quan, đơn vị, địa phương.

Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, tư tưởng chính trị ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang làm cho lòng dân không yên. Vì thế phải vừa giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, vừa quyết tâm thực hiện và làm mới thật sự đem lại ý nghĩa. Nói đi đôi với làm, lý luận gắn với thực tiễn, cần kiên quyết trừng trị và loại trừ kẻ hành dân, khinh dân, lừa đảo và ăn cắp của dân.Để nhằm đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới ở nước ta vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, phải đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện đường lối quần chúng “gần dân, học dân, gắn bó với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Mỗi cán bộ, đảng viên cần phải quán triệt những quan điểm chung đó.

Biện pháp 5: Quy hoạch cán bộ chiến lược

Một việc vô cùng quan trọng, không phải chỉđối với Đảng mà rất quan thiết đối với sự phát triển của đất nước. Nhân dịp này, chúng ta hãy nhớ lại những ý kiến của Hồ Chủ tịch đã từng nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”“Thường chúng ta không biết tùy tài mà dùng người”, “thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao”[Hồ_Chí_Minh, Sửa đổi lề lối làm việc, 1947].

Ở tầm quy hoạch cán bộ cấp chiến lược lại càng khó khăn gấp bội vì sự thành công hoặc thất bại của cán bộ ở cấp chiến lược sẽ là an nguy của cả dân tộc, và trước mắt sẽ quyết định vận mệnh của doanh nghiệp, của cơ quan, đơn vị. Do đó, công tác quy hoạch cán bộ cần phải thực sự quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh. Cán bộ tốt phải có 5 đức tính: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, với nội dung hoàn toàn mới: “Không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”[Hồ_Chí_Minh, Đời sống mới, 2007]. Câu này có ý nghĩa là phải chọn và rèn luyện cán bộ theo tầm vóc của dân tộc và của thời đại. Cán bộ cấp chiến lược trong giai đoạn mới càng phải là những người quán triệt sâu sắc tư tưởng dân chủ và nhân quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chính quyền dân chủ có nghĩa là chính quyền do người dân làm chủ” và “Nếu nước được độc lập mà dân không được tự do hạnh phúc thì độc lập cũng không có ý nghĩa gì”.

Về phương pháp chọn cán bộ, Người cho rằng “không phải nghe họ nói, mà phải xem “việc họ làm có đúng với lời nói, bài viết của họ hay không”, phải chọn “cán bộ cả gan nói”, “có gan phụ trách, có gan làm việc”, không nên chọn loại người “đập đi, hò đứng, không dám phụ trách”.“có làm việc thì có sai lầm”, “không sợ sai lầm và khuyết điểm, chỉ sợ không chịu sửa chữa sai lầm và khuyết điểm”.

Thực hiện đúng tư tưởng và phương pháp chọn cán bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ đảm bảo công tác quy hoạch cán bộ chiến lược thành công.

Biện pháp 6: Bí thư và cấp Uỷ đi đầu, gương mẫu trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

Trong Hội sở, Tổng Giám đốc, các thành viên trong Ban giám đốc, Bí thư và các thành viên cấp uỷ phải là những người đi đầu, gương mẫu trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đối với công việc được giao phải: Có trách nhiệm với công việc được giao và dám chịu trách nhiệm trước việc làm của mình, không ngại khó, không sợ khổ; phải luôn là người nêu gương về tuân thủ kỷ luật, trung thực và tận tâm, có tinh thần và trách nhiệm cao đối với công việc được giao; khắc phục khó khăn, nỗ lực hoàn thành tốt nhất công việc; tôn trọng và chấp hành quyết định của cấp trên, phát huy tính tự chủ, sáng tạo và dám chịu trách nhiệm; dám làm, dám chịu trách nhiệm, không thoái thác nhiệm vụ được giao.

Đối với cấp dưới phải đảm bảo dân chủ. Trong mối quan hệ với cấp dưới, lời nói và việc làm phải nhất quán, không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để mưu lợi cá nhân;đủ năng lực để quản lý được các nguồn lực trong Ngân hàng, quản lý và giải quyết được các xung đột lợi ích; giữ lời hứa với cấp dưới và nhân viên, bảo vệ danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của cấp dưới, của nhân viên. Ngoài ra, bí thư và cấp ủy cần phối hợp với Ban Giám đốc tạo dựng bầu không khí tin cậy, thân thiện trong chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ;tôn trọng và tin tưởng cấp dưới và nhân viên khi giao nhiệm vụ; tạo điều kiện để cấp dưới và nhân viên phát huy khả năng sáng tạo; tạo điều kiện cho cán bộ trong cơ quan cởi mở hiểu biết lẫn nhau; và phải quan tâm, chăm lo cải thiện điều kiện sống và làm việc cho cấp dưới và nhân viên, tạo dựng lòng tin và niềm tự hào của cán bộ với cơ quan, đơn vị.

KẾT LUẬN

Trong giai đoạn mới của cách mạng tự học tập, tu dưỡng rèn luyện phải trở thành nhu cầu trực tiếp, thói quen, hành vi hàng ngày của mỗi cán bộ, đảng viên.

Có thể thấy rằng, vai trò của đảng viên trong mọi thời đại nhất là trong thời đại mới là vô cùng quan trọng. Ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm của mình, mọi đảng viên phải ra sức học tập, tự rèn luyện để có đủ phẩm chất, kiến thức, năng lực đáp ứng nhiệm vụ được giao, nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu trong công tác, lao động sản xuất và trong lối sống. Các cấp ủy phải thường xuyên quan tâm bồi dưỡng để nâng cao phẩm chất và trình độ nhận thức về các mặt cho đảng viên, làm tốt việc rèn luyện đảng viên trong thực tiễn và quản lý tốt đảng viên. Kiên quyết khai trừ khỏi Đảng những đảng viên thoái hóa, biến chất về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, gây chia rẽ, bè phái, tham nhũng, lãng phí, ức hiếp quần chúng, sách nhiễu nhân dân... Mạnh dạn đưa ra khỏi Đảng bằng các hình thức thích hợp, những đảng viên không tha thiết với Đảng, giảm sút ý chí phấn đấu, thật sự không có tác dụng trong vai trò lãnh đạo. Kết nạp đảng viên mới cần bảo đảm chất lượng, chú trọng trẻ hóa đội ngũ .

Cán bộ, đảng viên nào lười học, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận, cập nhật những thông tin mới, những tri thức mới cũng là một biểu hiện suy thoái về đạo đức. Đảng viên trẻ đặc biệt đảng viên là thanh niên, học sinh, sinh viên, trí thức và công nhân - nguồn nhân lực quan trọng trong thời kỳ hội nhập và phát triển của đất nước cần phải thường xuyên tự phấn đấu học tập, tu dưỡng, rèn luyện không ngừng “vừa làm vừa học cũng phải học” để có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức chính trị, lập trường quan điểm vững vàng, trình độ chuyên môn giỏi, xung kích, năng động, sáng tạo; đồng thời, phải có tinh thần học hỏi, khiêm tốn, cầu thị, tận tâm, tận lực đem trí tuệ của mình phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân

Những chỉ dẫn quý báu về đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi là hành trang, là “cẩm nang thần kỳ” để mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta tham gia vào hoạt động thực tiễn. Sống, làm việc và học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mãi mãi là khẩu hiệu hành động của chúng ta. Có như vậy, mỗi người cán bộ, đảng viên mới thực sự là tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức, lối sống, hết lòng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng, mới trở thành những người “công bộc” của dân như Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ, đảng viên ./.


Nguyễn Thị Quỳnh Giang
Chuyên viên Trung tâm Nghiên cứu hội, tổ chức phi chính phủ
Viện Khoa học tổ chức nhà nước - Bộ Nội vụ

Video liên quan

Chủ Đề