Giải bài tập tài chính hành vi chương 9

Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.

* NOTE: ,mức giá 236,000 chưa bao gồm phí vận chuyển. Phí vận chuyển được tính theo biểu giá của công ty Proship. VFA sẽ liên hệ với khách hàng để thông báo về phí vận chuyển sau khi nhận được đơn hàng của bạn.

Tài chính hành vi không giúp cho nhà đầu tư đưa những dự đoán về tương lại. Tuy nhiên, bằng cách nhìn lại những hành vi trong quá khứ, và những hiểu biết về yếu tố cảm xúc tác động đến quyết định đầu tư, nhà đầu tư có thể tránh những sai lầm. Học tài chính hành vi là học cách tránh những sai lầm. Đối với một trader, tránh sai lầm và tránh thua lỗ là điều kiện tiên quyết để sinh tồn trên thị trường tài chính khắc nghiệt.

Tài chính hành vi hoặc kinh tế tài chính học hành vi là một ngành khoa học trỗi dậy can đảm và mạnh mẽ từ sau năm 2008 khi học thuyết kinh tế-tài chính chuẩn tắc [ hay còn gọi là dòng chính ] thất bại trong việc lý giải sự sụp đổ của thị trường. Học thuyết tài chính tài chính dòng chính dựa trên nền tảng cho rằng hành vi của nhà đầu tư là duy lý vì quyền lợi kinh tế tài chính. Tuy nhiên, từ những nghiên cứu và điều tra của Daniel Kahneman vào những thập niên 80 đã tạo nên một triết lý tài chính đối ngược khi cho rằng, những quyết định hành động góp vốn đầu tư chịu sự chi phối mạnh của yếu tố tâm ý và cảm hứng. Điều đó khiến nhà góp vốn đầu tư mắc phải những lỗi thường gặp trong hoạt động giải trí góp vốn đầu tư .
Theo tài chính hành vi, con người rất tệ trong việc đưa ra những quyết định hành động lựa chọn. Thực sự, con người đưa ra những quyết định hành động lựa chọn một cách đầy cảm hứng và thiếu khôn ngoan hơn bạn nghĩ. Tâm lý sợ mất mát là trong những yếu tố lý giải cho những quyết định hành động tồi của con người theo thuyết triển vọng của Amos Tversky và Kahneman. Thuyết triển vọng là một trong những bước nâng tầm của Tài chính hành vi .

Dựa trên thuyết triển vọng, con người thích tìm kiếm rủi ro khi đối diện với thua lỗ nhưng thích an toàn khi đứng trước lợi nhuận chắc chắn. Điều này là do tâm lý sợ thua lỗ. Chúng ta luôn cảm thấy mất mát có một cái gì đó rất đáng sợ. Thua 100 USD có cảm giác tồi tệ hơn nhiều so với cảm giác thắng 100 USD, mặc dù cả hai đều có giá trị tuyệt đối như nhau. Đây là một sản phẩm của sự tiến hóa, não người thường có xúc cảm với đạo đức: như thiện và ác, xấu và tốt. Theo nghiên cứu của Kahneman, thậm chí tỷ lệ e sợ rủi ro còn ở mức 1.5 đến 2.5 lần. nghĩa là nếu bạn thua 100 USD sẽ có cảm giác sợ hãi tương đương với cảm xúc lời 150 USD hoặc 250 USD. Chính vì tâm lý sợ thua lỗ, nên khi bị dồn vào đường cùng sinh tử hoặc đối diện với khoản lỗ lớn, con người chấp nhận những phương án rủi ro. Họ chấp nhận một khả năng dù rất nhỏ không phải chịu thua lỗ. Trái lại, khi có một khoản lãi hoặc vấn đề sống còn, họ muốn sự an toàn. Chính tâm lý này lý giải tại sao các nhà đầu tư thường có khuynh hướng bán các chứng khoán lãi và giữ các chứng khoán lỗ. Theo quan sát của Kahneman, khi các nhà đầu tư cần rút ra một khoản tiền, các nhà đầu tư thường có khuynh hướng bán ra các chứng khoán đang có lãi hơn là bán đi các chứng khoán lỗ.

Bên cạnh tâm ý sợ thua lỗ là còn do con người thường hay bị neo vào một điểm nào đó khi đưa ra quyết định hành động. Thuật ngữ gọi là “ HIệu ứng mốc neo ”. Thực ra con người không phải thỏa mãn nhu cầu với mức gia tài hiện tại mà còn tham chiếu đến lịch sử dân tộc gia tài của họ. Sự thoả mãn của con người là theo sự biến hóa trong gia tài chứ không phải là mức gia tài. Trong quyết định hành động của những nhà đầu tư, cảm xúc lãi và lỗ được sinh ra là do con người thường hay neo vào giá mua vào trước đó. Một nhà đầu tư lý trí sẽ hiểu rằng, giá mua vào là một ngân sách chìm và không còn tác động ảnh hưởng đến quyết định hành động mua và bán trong tương lai. Chúng ta cần tập trung chuyên sâu vào việc nhìn nhận triển vọng tương lai của mỗi CP để đưa ra quyết định hành động mua và bán chứ không phải là do CP này đang lời hay đang lỗ. Thậm chí, một nhà đầu tư lý trí còn hoàn toàn có thể ưu tiên bán những khoản lỗ vì tiềm năng tránh mặt thuế. Hiệu ứng tháng giêng là một ví dụ. Các nhà đầu tư thường có khuynh hướng bán CP lỗ vào tháng 12 ở Mỹ để khỏi phải nộp thuế và sau đó mua lại với giá cao hơn ở tháng 1 . Hiêu ứng chiếm hữu sản phẩm & hàng hóa cũng là một cách lý giải khác khi những nhà đầu tư chậm cắt lỗ. Đó là cảm xúc mất mát khi không còn chiếm hữu CP đó. Một nhà góp vốn đầu tư khi mua CP thường có một kỳ vọng nào đó, không đơn thuần chỉ là kỳ vọng tăng giá. Họ cảm thấy rất khó khăn vất vả khi không còn chiếm hữu CP .

Tài chính hành vi giúp tất cả chúng ta hiểu và tránh lặp lại những sai lầm đáng tiếc khác thường mắc mãi : Tự nghiệm [ Heuristic ] là một thuật ngữ quan trọng trong tài chính chính hành vi, miêu tả viêc con người sử dụng lối tắt dùng những thông tin con để nhìn nhận một sự kiện lớn. Thực tế, đời sống lẫn hoạt động giải trí góp vốn đầu tư yên cầu con người luôn phải đưa ra quyết định hành động. Trong toàn cảnh thông tin hạn chế và năng lực giải quyết và xử lý chậm của não bộ, con người buộc phải dùng những yếu tố xúc cảm so với những điều mà họ quen thuộc để nhìn nhận. Ví dụ, những nhà đầu tư thường có thói quen góp vốn đầu tư vào những CP mà họ biết hoặc đã từng góp vốn đầu tư. Nhà góp vốn đầu tư rất ghét sự mơ hồ và thường lựa chọn những cái gì “ quen thuộc ” / Nguồn gốc của sự mơ hồ xuất phát từ cảm xúc e sợ rủi ro đáng tiếc, không chắc như đinh. Nhà góp vốn đầu tư cũng không muốn đổi khác những thói quen. Điều này lý giải tại sao những nhà đầu tư thường góp vốn đầu tư theo vùng miền, tức trong thị trường hoặc vương quốc mà họ thanh toán giao dịch nhưng lại không nỗ lực đa dạng hóa. Các nhà đầu tư thường nhìn nhận quá cao những gia tài mà họ đang nắm giữ và ước đạt quá cao về nó 8 .

Nội dung của cuốn sách này có 8 phần bao gồm 20 chương.
Phần I: TÀI CHÍNH CHÍNH THỐNG, LÝ THUYẾT TRIỂN VỌNG VÀ THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ.

  • Chương 1 : Nền tảng tài chính I : Lý thuyết hữu dụng kỳ vọng .
  • Chương 2 : Nền tảng tài chính II : Định giá gia tài, thị trường hiệu suất cao, và những mối quan hệ đại diện thay mặt .
  • Chương 3 : Lý thuyết triển vọng, mẫu hình và giám sát bất hài hòa và hợp lý .
  • Chương 4 : Những thử thách so với thị trường hiệu suất cao .

PHẦN II : NỀN TẢNG KHOA HỌC HÀNH VI

  • Chương 5 : Tự nghiệm và rơi lệch .
  • Chương 6 : Sự tự tin quá mức .
  • Chương 7 : Nền tảng của cảm hứng .

PHẦN III : HÀNH VI NHÀ ĐẦU TƯ

  • Chương 8 : Tác động của tự nghiệm và những rơi lệch so với việc ra quyết định hành động tài chính .
  • Chương 9 : Ảnh hưởng của sự tự tin quá mức trong những quyết định hành động tài chính .
  • Chương 10: Nhà đầu tư cá nhân và tác động của cảm xúc.

    Xem thêm: Bản Tin Thị Trường Chứng Khoán Mới Nhất Hôm Nay

PHẦN IV : ẢNH HƯỞNG XÃ HỘI

  • Chương 11 : Ảnh hưởng xã hội : vị kỷ hay vị tha ?
  • Chương 12 : Ảnh hưởng xã hội ở nơi thao tác : Sự sụp đổ của một công ty Mỹ .

PHẦN V : KẾT QUẢ THỊ TRƯỜNG

  • Chương 13 : Lý giải về hành vi cho những hiện tượng kỳ lạ không bình thường .
  • Chương 14 : Các yếu tố hành vi có lý giải được những yếu tố hóc bùa trên kinh doanh thị trường chứng khoán .

PHẦN VI : TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

  • Chương 15 : Những nhà quản trị có lý trí và những nhà đầu tư thiếu lý trí .
  • Chương 16 : Tài chính hành vi trong quản trị doanh nghiệp .

PHẦN VII : NGHỈ HƯU, LƯƠNG HƯU, GIÁO DỤC, GIẢM THIỂU CÁC LỆCH LẠC VÀ QUẢN LÝ KHÁCH HÀNG

  • Chương 17 : Tìm hiểu hành vi tiết kiệm ngân sách và chi phí hưu trí và nâng cấp cải tiến hình thức lương hưu DC .
  • Chương 18 : Giảm thiểu xô lệch, giáo dục và việc quản trị người mua .

​ PHẦN VIII : QUẢN LÝ TIỀN

Đôi nét về tác giả
Lucy F. Ackert là Giáo sư Tài chính của Michael J. Coles College of Business tại đại học Kennesaw State và là Học giả danh dự tại Federal Reserve Bank của Atlanta. Giáo sư Ackert tốt nghiệp bằng Tiến sĩ về kinh tế học tài chính tại Emory University. Lĩnh vực nghiên cứu của bà bao gồm việc sử dụng thông tin của cá nhân và những phản ứng của thị trường tài chính đối với các thông tin. Tiến sĩ Ackert đã xuất bản rất nhiều bài báo trên các tạp chí như American Economic Review, Journal of Accounting Research, và Journal of Finance.

Năm 1993, Tiến sĩ Ackert nhận phần thưởng Smith Breeden Prize cho bài báo xuất chúng trên Journal of Finance. Nghiên cứu của bà đã nhận được sự hỗ trợ vốn từ rất nhiều những tổ chức triển khai gồm có Center for the Study of Futures Markets của Columbia University, Chicago Board of Trade, Canadian Investment Review, và Social Science and Humanities Research Council của Canada. Năm 2008, Tiến sĩ Ackert nhận phần thưởng Kennesaw State University Distinguished Graduate Scholarship Award .
Tiến sĩ Ackert đã từng dạy tại Emory University, Berry College, và Wilfrif Laurier University. Bà đã dạy rất nhiều khóa học cho những sinh viên ĐH cũng như sau đại học, gồm có những khóa học như Tài chính hành vi, Tài chính doanh nghiệp, Thị phần quyền chọn và giao sau, Các định chế tài chính, Các trường hợp trong tài chính, Nhập môn chiêu thức thống kê, và Kinh tế học vi mô .

Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.

Video liên quan

Chủ Đề