Dđánh giá ý nghĩa của cachsmangj khoa học kĩ thuật

- Một là,  trong lĩnh vực khoa học cơ bản: Đạt được những phát minh to lớn trong Toán học, Vật lí, Hóa học và Sinh học. à Con người đã ứng dụng vào kỹ thuật và sản xuất để phục vụ cuộc sống.  
- Hai là, đã phát minh ra được những công cụ sản xuất mới, nhất là máy tính điện tử, máy tự động, hệ thống máy tự động.
- Ba là, Con người tìm ra được những nguồn năng lượng mới: Mặt trời, gió, thủy triều, nguyên tử…
- Bốn là, Sáng chế được những vật liệu mới, trong đó, chất dẻo giữ vị trí quan trọng.
- Năm là, Thành công cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp, con người đã khắc phục được nạn đói kéo dài.
- Sáu là, Đạt được những tiến bộ thần kỳ trong giao thông vận tải, thông tin liên lạc, chinh phục vũ trụ…
       b. Ý nghĩa
- Có ư ý nghĩa to lớn như một cột mốc chói lọi trong lịch sử tiến hóa văn minh của loài người.
- Mang lại những tiến bộ phi thường, những thành tựu kỳ diệu và những thay đổi to lớn trong cuộc sống con người. 
c. Những tác động:
+ Tác động tích cực
- Cho phép thực hiện những bước nhảy vọt chưa từng thấy của lực lượng sản xuất và năng suất lao động.
- Những tiến bộ kỹ thuật cho phép tạo ra hàng hóa, sản phẩm mới, thiết bị tiện nghi mới, nhu cầu tiêu dùng mới. Vì vậy, đời sống của con người được cải thiện, mức sống được nâng cao.
- Đưa tới những thay đổi to lớn về cơ cấu dân cư: Giảm lao động trong nông nghiệp, công nghiệp, tăng dân số trong lao động dịch vụ.
- Đưa loài người chuyển sang một nền văn minh mới, “Văn minh trí tuệ”. 
- Làm cho nền kinh tế thế giới ngày càng được quốc tế hóa cao, đang hình thành một thị trường toàn thế giới.
 +  Tác động tiêu cực
- Chế tạo cá loại vũ khí và các phương tiện quân sự có sức tàn phá và hủy diệt sự sống như bom hạt nhân, vũ khí sinh học…
- Tạo ra nạn ô nhiễm môi trường [Ô nhiễm khí quyển, đại dương, sông hồ, bãi rác trong vũ trụ…], việc nhiễm phóng xạ và nguyên tử. 
- Tạo ra những tai nạn lao động và tai nạn giao thông và những dịch bệnh mới như AIDS, cúm gà H5N1, các làng ung thư dô nhiễm môi trường… 
- Lợi dụng để tạo ra những mối đe dọa về đạo đức xã hội và an ninh đối với con người. 
d. Làm thế nào để hạn chế được những tác động tiêu cực:
- Các nước cần tăng cường hơn về xu thế đối thoại, hòa bình. Tránh xung đột, chạy đua vũ trang, tiến tới cắt giảm, ngừng sản xuất các loại vũ khí hủy diệt.
- Tăng cường hơn nữa về công tác tuyên truyền, giáo dục mọi người về việc giữ vệ sinh, bảo vệ môi trường . Tích cực trồng cây xanh, bảo vệ rừng, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ nguồn sinh thái…
- Làm tốt công tác tuyên truyền và thực hiện đúng luật an toàn giao thông.
- Các nhà khoa học cần nghiên cứu, chế tạo ra những loại thuốc chữa bệnh hiệu quả để góp phần chữa bệnh, cứu người. 

- Làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục cho mọi người, không nên lợi dụng KHKT để vi phạm đạo đức, an ninh xã hội. Cần xử  nghiêm khắc những trường hợp vi phạm. 


 

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

- Do các đòi hỏi của cuộc sống về kĩ thuật và sản xuất để đáp ứng những nhu cầu về vật chất và tinh thần ngày càng cao của con người.

- Những năm gần đây, nhân loại đang đứng trước những vấn đề to lớn: bùng nổ dân số, tài nguyên cạn kiệt, ô nhiễm môi trường. Điều đó đặt ra những yêu cầu mới [công cụ sản xuất mới có kỹ thuật cao, nguồn năng lược mới, những vật liệu mới] đối với khoa học - kĩ thuật.

- Do nhu cầu phục vụ chiến tranh của các nước đế quốc.

2. Đặc điểm của cách mạng khoa học - kĩ thuật

Năng lượng mặt trời

- Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

- Thời gian phát minh khoa học đến ứng dụng vào sản xuất ngày càng rút ngắn.

- Đầu tư vào khoa học có lợi nhất.

- Khoa học đang trong thời kì bùng nổ thông tin.

3. Thành tựu 

Lĩnh vựcThành tựu
Khoa học cơ bảnCừu Đô-li, Bản đồ gen người...
Công cụ sản xuất mớiMáy tính điện tử, máy tự động, hệ thống máy tự động
Nguồn năng lượng mớiNăng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng thủy triều...
Vật liệu mớiChất pô-li-me
Nông nghiệpCuộc "cách mạng xanh"
Giao thông vận tải và thông tin liên lạc

- Máy bay siêu âm khổng lồ, tàu hỏa tốc độ cao

- Những phương tiện thông tin liên lạc, phát sóng vô tuyến hiện đại

Chinh phục vũ trụPhóng thành công vệ tinh nhân tạo, đưa con người bay vào vũ trụ [1961], đặt chân lên Mặt Trăng [1969]...

Sản xuất điện từ nguồn năng lượng gió

@80852@

1. Ý nghĩa

- Cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật có ý nghĩa vô cùng lớn lao, như một cột mốc lớn chói lọi trong lịch sử tiến hóa văn minh loài người .

- Mang những tiến bộ phi thường, những thành tựu kì diệu.

- Tạo nên những đổi thay to lớn trong cuộc sống.

20/07/1969, phi hành gia người Mỹ Neil Amstrong đã đặt chân lên mặt Trăng

a. Tích cực

- Cách mạng khoa học - kĩ thuật đã mang lại những tiến bộ phi thường, những thành tựu kì diệu làm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của con người.

- Cho phép con người thực hiện những bước nhảy vọt chưa từng thấy về năng suất lao động.

- Thay đổi cơ cấu dân cư lao động với xu thế tỷ lệ dân cư lao động trong nông nghiệp và công nghiệp giảm dần, tỷ lệ dân cư trong các ngành dịch vụ tăng dần.

- Đưa loài người sang nền văn minh thứ ba, nền văn minh sau thời kì công nghiệp hóa, lấy vi tính, điện tử, thông tin và khoa sinh hóa làm cơ sở.

- Làm cho sự giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học - kĩ thuật… ngày càng quốc tế hóa cao.

b. Hạn chế

- Chế tạo các loại vũ khí và các phương tiện quân sự có sức tàn phá và hủy diệt sự sống.

- Nạn ô nhiễm môi trường [ô nhiễm khí quyển, đại dương, sông hồ…].

- Nhiễm phóng xạ nguyên tử, tai nạn lao động, tai nạn giao thông gắn liền với kĩ thuật mới, dịch bệnh và tệ nạn xã hội…

@57192@

Cách mạng khoa học - kỹ thuật, còn được gọi là Cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại, Cách mạng khoa học - kỹ thuật thế kỷ XX[1], Cách mạng kỹ thuật lần thứ hai[Gc 1], Cách mạng khoa học - kỹ thuật sau Thế chiến thứ hai[3], Cách mạng thông tin[4] là một khái niệm nói về những phát triển mang tính vượt bậc và bước ngoặt của khoa học và kỹ thuật diễn ra từ giữa thế kỷ 20, hoặc sau khi Thế chiến thứ hai [1939-45] kết thúc. Trên thực tế, "Cách mạng khoa học - kỹ thuật" là một khái niệm mới ra đời trong thế kỷ 20 và nội dung của khái niệm này có nhiều điều chưa được thống nhất trong giới học giả nói chung.[1]

Mục lục

  • 1 Lược sử khái niệm
  • 2 Nội dung của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại
    • 2.1 Đặc tính
    • 2.2 Thành tựu
    • 2.3 Ảnh hưởng
  • 3 Xem thêm
  • 4 Chú thích
  • 5 Tham khảo

Lược sử khái niệmSửa đổi

Học giả người Anh J. D. Bernal vào năm 1939 đã giới thiệu khái niệm "Cách mạng khoa học - kỹ thuật" trong tác phẩm "The Social Function of Science" [Chức năng xã hội của khoa học] để mô tả vai trò mới của khoa học - kỹ thuật trong tiến trình phát triển của xã hội. Bernal đã vận dụng thuyết về lực lượng sản xuất của Các Mác để minh chứng rằng khoa học đang trở thành một "lực lượng sản xuất" trong xã hội[5]. Lý luận của Bernal đã được áp dụng trong giới khoa học ở các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa. Tác phẩm Văn minh ở ngã tư đường của học giả người Séc Radovan Richta [1969] trở thành chuẩn mực cho các nghiên cứu về chủ đề này.[6] Tuy nhiên, trong nội bộ giới trí thức Xô Viết cũng có nhiều quan điểm không hoàn toàn giống nhau về khái niệm này.[7]

Daniel Bell vào năm 1980 phản bác lại thuyết này, ông cho rằng xã hội sẽ tiến vào giai đoạn hậu công nghiệp với các ngành dịch vụ sẽ thay thế vai trò chủ đạo của các ngành sản xuất vật chất trong nền kinh tế và điều đó sẽ dẫn đến một xã hội dịch vụ thay cho xã hội theo khuôn mẫu của chủ nghĩa xã hội.[8] Lập luận của Bell được một số nhà khoa học ủng hộ, tỉ như Zbigniew Brzezinski [1976] với tác phẩm "Technetronic Society".[9] Một số định nghĩa về tên gọi Cách mạng thông tin cũng nghĩ rằng cuộc cách mạng bắt đầu từ giữa thế kỷ 20 với sự ra đời của vi mạch và chip, từ đó dẫn tới các thay đổi mang tính cách mạng trong đời sống với sự phát triển vượt bậc của máy vi tính, máy tính, các công nghệ điện tử viễn thông khác và dẫn tới ngành dịch vụ ngày càng trở nên quan trọng hơn so với ngành sản xuất công nông nghiệp, và sản phẩm của những nhân công tay nghề cao chủ yếu là kiến thức và thông tin mà họ mang lại cho xã hội.[10]

Nội dung của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đạiSửa đổi

Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thế kỷ XX bắt nguồn từ những nhu cầu càng lúc càng tăng cao của con người trong suốt tiến trình lịch sử trong khi sức lực và khả năng [sinh học] của con người có hạn không thể đáp ứng tất cả các nhu cầu ngày càng tăng, đồng thời tài nguyên thiên nhiên, vật liệu tự nhiên về số lượng và tính chất cũng có giới hạn, không thể đáp ứng những yêu cầu mới nảy sinh trong cuộc sống. Hơn thế nữa, trong cuộc sống hiện đại, các vấn đề về cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, bùng nổ dân số, chiến tranh càng ngày càng cấp bách đòi hỏi những bước phát triển kịp thời của kỹ thuật, công nghệ để khắc phục những khó khăn và đáp ứng các đòi hỏi ngày càng đắt đỏ của nhân loại. Đồng thời, do sống gắn bó chặt chẽ với các hiện tượng tự nhiên [gió, bão, mưa, sấm chớp, lũ lụt, động đất,...] và chịu nhiều ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực từ chúng, con người buộc phải đẩy mạnh việc nghiên cứu khoa học để hiểu rõ về tự nhiên nhằm khắc phục các tác hại và tận dụng các thuận lợi của tự nhiên cho mình.

Ngoài ra, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật từ giữa thế kỷ XX cũng đã có nền tảng vững chắc từ những phát triển mang tính bước ngoặt về khoa học từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, như lý thuyết nguyên tử hiện đại, cấu trúc về nguyên tử, thuyết tương đối và các thành tựu nổi bật khác trong vật lý, sinh học, hóa học,... Rất nhiều các phát minh lớn của thế kỷ XX như bán dẫn, tia laser, năng lượng hạt nhân, máy tính điện tử,... đều có liên quan đến những thành tựu khoa học này.

Cũng cần phải kể đến hai sự kiện mang tính bước ngoặt có tác dụng thúc đẩy việc đi sâu vào nghiên cứu khoa học. Thứ nhất, đó là cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai [1939-45], nó đặt ra yêu cầu phát triển các phương tiện chiến tranh tối tân hơn nhằm nâng cao tính cơ động, xây dựng mạng lưới chỉ huy và thông tin liên lạc hiệu quả [ra đa] cùng những vũ khí có sức sát thương lớn [bom nguyên tử, tên lửa]. Và thứ hai, đó là cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973 đã gây ra sự khủng hoảng toàn diện về cả kinh tế lẫn chính trị, đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết trong đó có việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học - kỹ thuật theo chiều sâu nhằm giải quyết khủng hoảng và tiếp tục phát triển.

Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại có thể được chia ra làm hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ thập niên 1940 tới giữa thập niên 1970. Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ cuộc khủng hoàng dầu mỏ năm 1973 đến nay, với đặc điểm khoa học kỹ thuật phát triển theo chiều sâu thay vì chiều rộng, trọng tâm đặt nhiều về việc phát triển về nghiên cứu các loại công nghệ và cách mạng về công nghiệp được nâng lên hàng đầu[Gc 2].[2][11]

Đặc tínhSửa đổi

So với cuộc cách mạng công nghiệp, cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại có nội dung phong phú, đa dạng và rộng lớn hơn rất nhiều. Sự phát triển vượt bậc không những diễn ra trong các ngành khoa học cơ bản [toán học, vật lý, sinh học, hóa học] mà còn thể hiện ở việc phát sinh của nhiều ngành khoa học, kỹ thuật mới như khoa học vũ trụ, điều khiển học; ngoài ra cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật còn đi sâu vào những lĩnh vực mới [thế giới vi mô, các vùng địa lý bí hiểm, bí mật của sự sống...] và hình thành nên ra các kỹ thuật mới, nguyên vật liệu mới, năng lượng mới mà các giai đoạn trước đó chưa từng tiếp cận hay hình dung được.

Một đặc tính khác của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại là vai trò chủ đạo và định hướng của khoa học trong sự phát triển của công nghệ và sức sản xuất. Nhìn lại giai đoạn cách mạng công nghiệp, khoa học không bắt kịp với kỹ thuật, không dẫn tới các tiến bộ kỹ thuật và các phát minh, cải tiến kỹ thuật cũng không bắt nguồn từ các phát kiến khoa học và các nhà phát minh thường là những người lao động thay vì các nhà khoa học. Tuy nhiên, trong cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại, khoa học đã đi trước kỹ thuật rất xa, mở đường cho sự phát triển của kỹ thuật, công nghệ, là nguyên nhân, nguồn gốc của các tiến bộ kỹ thuật, thâm nhập sâu sắc vào sự phát triển của sức sản xuất và đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Điều này cũng có nghĩa là thời gian ứng dụng khoa học vào phát triển công nghệ và sản xuất càng ngày càng ngắn: trong khi từ nguyên lý máy ảnh đến chế tạo ra chiếc máy ảnh đầu tiên mất 100 năm, thì quá trình tương tự xảy ra đối với mạch vi điển tử chỉ mất 3 năm và tia la-de chỉ mất 2 năm. Đồng thời, hiệu quả kinh tế của việc đầu tư vào khoa học càng lúc càng lớn và lợi nhuận cao hơn so với nhiều lĩnh vực khác.

Sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của khoa học và kỹ thuật như trên đã dẫn tới hiện tượng "bùng nổ thông tin", tức là số lượng thông tin, kiến thức khoa học, tài liệu khoa học và đội ngũ các nhà khoa học đã tăng nhanh một cách đột biến với tốc độ phát triển gấp nhiều lần so với quá khứ. Vốn kiến thức khoa học của nhân loại theo ước tính cứ 7 năm tăng gấp đôi, và số nhà khoa học cứ 10 năm thì lại tăng 2 lần. Một nửa số tài liệu khoa học xuất bản của nhân loại [tính đến cuối thế kỷ XX] được xuất bản trong 15-20 năm cuối cùng của thế kỷ này.

Thành tựuSửa đổi

Trải qua nửa thế kỉ, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đã đạt được những tiến bộ phi thường tạo nên một bước "Đại nhảy vọt". Có thể khái quát bằng những lĩnh vực sau đây:

Một là, trong lĩnh vực khoa học cơ bản đã đạt được những phát minh to lớn trong Toán học, Vật lý, Hóa học và Sinh học. Dựa vào những phát minh to lớn của các ngành khoa học cơ bản, con người đã ứng dụng vào kĩ thuật và sản xuất để phục vụ cuộc sống của mình.

Hai là, những phát minh to lớn về những công cụ sản xuất mới, trong đó có ý nghĩa quan trọng bậc nhất là sự ra đời của máy tính điện tử, máy tự động và hệ thống máy tự động.

Ba là, trong tình trạng các nguồn năng lượng thiên nhiên đang ngày càng cạn kiệt, con người đã tìm ra được những nguồn năng lượng mới như năng lượng nguyên tử, năng lượng gió, năng lượng mặt trời,... trong đó năng lượng nguyên tử ngày càng được phổ biến và được sử dụng rộng rãi.

Bốn là, sáng chế ra những vật liệu mới trong tình hình các vật liệu tự nhiên đang cạn dần trong thiên nhiên. Chất polymer đang giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong đời sống hàng ngày của con người cũng như trong các ngành công nghiệp.

Năm là, cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp đã giải quyết được rất nhiều vấn nạn về lương thực, đói ăn kéo dài từ bao đời nay.

Sáu là, những tiến bộ thần kì trong lĩnh vực giao thông vận tải và thông tin liên lạc với những loại máy bay siêu âm khổng lồ, những tảu hỏa tốc độ cao,...và những phương tiện thông tin liên lạc, phát sóng vô tuyến hết sức hiện đại qua hệ thống vệ tinh nhân tạo [Hệ thống Định vị toàn cầu GPS]

Ảnh hưởngSửa đổi

Là một bộ phận không thể tách rời khỏi sự phát triển của xã hội và con người, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại đã đem lại sự thay đổi to lớn mang tính bước ngoặt trong sự phát triển của xã hội. Sự phát triển mạnh mẽ về khoa học kỹ thuật đã tạo ra những bước nhảy vọt chưa từng thấy trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất và năng suất lao động, làm xuất hiện nhiều ngành sản xuất mới có liên quan đến sự tiến triển của khoa học và công nghệ [công nghiệp tên lửa, điện tử, vi sinh...] và thay đổi hoàn toàn cơ cấu các ngành kinh tế ở nhiều khu vực. Trong khi cách mạng công nghiệp chứng kiến nền sản xuất từ thủ công chuyển sang cơ khí hóa, cách mạng khoa học - kỹ thuật cho thấy sự tự động hóa cao độ của nền sản xuất dựa trên việc điện tử hóa và ứng dụng các thành tựu mới nhất của công nghệ vào sản xuất. Ngoài ra, tất cả những thay đổi to lớn trong công nghệ và sản xuất đã tạo ra những thiết bị sinh hoạt, hàng tiêu dùng mới làm thay đổi hoàn toàn lối sống của con người trong xã hội. Bên cạnh những tác động tích cực mà cuộc cách mạng khoa học đem lại thì nó cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với loài người như tình trạng ô nhiễm môi trường, hiện tượng trái đất nóng dần lên, những tai nạn giao thông, tai nạn lao động, các loại bệnh dịch mới, nhất là chế tạo nhiều vũ khí hiện đại có thể hủy diệt nhiều lần sự sống trên hành tinh...

Xem thêmSửa đổi

  • Cách mạng đồ đá mới
  • Cách mạng nông nghiệp
  • Cách mạng khoa học
  • Cách mạng công nghiệp

Chú thíchSửa đổi

Ghi chú

  1. ^ Để phân biệt với Cách mạng công nghiệp, đôi khi được gọi là Cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất.[2]
  2. ^ Chính vì vậy, giai đoạn 2 của cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại còn gọi là Cách mạng khoa học - công nghệ.[11][12]

Nguồn dẫn

  1. ^ a b Lê Phụng Hoàng, tr. 211
  2. ^ a b Nguyễn Anh Thái, tr. 517
  3. ^ Nguyễn Anh Thái, tr. 514
  4. ^ What is information revolution? Lưu trữ 2013-06-27 tại Wayback Machine Business Dictionary
  5. ^ Bernal, J. D. [1939], The Social Function of Science, George Routledge & Sons Ltd., London.
  6. ^ Richta, R., Ed. [1969] Civilization at the Crossroads, ME Sharp, NY
  7. ^ Bài giới thiệu về sách The "Scientific-Technological Revolution" and Soviet Foreign Policy của Erik F. Hoffmann và Robbin F. Laird tại trang mạng Foreign Affairs
  8. ^ Bell, Daniel [1980], Sociological Journeys: Essays 1960–1980, Heinmann, London ISBN 0435820699
  9. ^ Brzezinksi, Z. [1976], Between the Two Ages: America in the Technetronic Era, Penguin ISBN 0313234981
  10. ^ The Information Revolution Lưu trữ 2013-01-20 tại Wayback Machine University of Missouri.
  11. ^ a b Phan Ngọc Liên, Vũ Dương Ninh, Trần Bá Đệ, tr. 67
  12. ^ Lê Phụng Hoàng, tr. 212

Tham khảoSửa đổi

  • Lê Phụng Hoàng [chủ biên]. Lịch sử văn minh thế giới. Nhà xuất bản Giáo dục. Thành phố Hồ Chí Minh, 1999. Chương XI: Văn minh thế kỷ XX, Mục II: Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, các trang 211-221.
  • Nguyễn Anh Thái [chủ biên]. Lịch sử thế giới hiện đại 1917 - 1995 [tái bản lần thứ 6]. Nhà xuất bản Giáo dục. Thành phố Hồ Chí Minh, 2006. Chương XXVII: Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật sau chiến tranh thế giới thứ hai.
  • Phan Ngọc Liên, Vũ Dương Ninh, Trần Bá Đệ [chủ biên]. Sách giáo khoa Lịch sử lớp 12 [tái bản lần thứ 5]. Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh, 2013. Chương VI, Bài 10, các trang 66-68.

Video liên quan

Chủ Đề