Dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh
Phân tích cơ sở đổi mới dạy học theo quan điểm dạy học định hướng phát triểnnăng lựcBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.58 KB, 21 trang ) NHIỆM VỤ 2 Định nghĩa Tiếp cận năng lực : là cách tiếp cận nêu rõ kết quả - những khả năng hoặc kĩ năng mà người học mong muốn đạt được vào cuối mỗi giai đoạn học tập trong nhà trường ở một môn học cụ thể. Nói cách khác, cách tiếp cận này nhằm trả lời câu hỏi: Chúng ta muốn người học biết và có thể làm được những gì? Cách tiếp cận nội dung dẫn tới tình trạng phổ biến tri thức một chiều: thầy giảng, trò nghe; thầy đọc, trò ghi chép làm người học không phát huy được tính sáng tạo do chỉ làm theo hướng dẫn của thầy, thiếu khả năng suy nghĩ độc lập và giải quyết các vấn đề thực tiễn, không có khả năng tự học và thói quen tự tìm tri thức để học, thiếu kỹ năng làm việc nhóm do học một cách thụ động. Tiếp cận năng lực chủ trương giúp người học không chỉ biết học thuộc, ghi nhớ mà còn phải biết làm thông qua các hoạt động cụ thể, sử dụng những tri thức học được để giải quyết các tình huống do cuộc sống đặt ra. Nói cách khác phải gắn với thực tiễn đời sống. Nếu như tiếp cận nội dung chủ yếu yêu cầu người học trả lời câu hỏi: Biết cái gì, thì tiếp cận theo năng lực luôn đặt ra câu hỏi: Biết làm gì từ những điều đã biết.Nói cách khác, nói đến năng lực là phải nói đến khả năng thực hiện, là phải biết làm chứ không chỉ biết và hiểu . Chương trình dạy học định hướng nội dung có nhiều ưu điểm như truyền thụ cho học sinh một hệ thống tri thức khoa học và hệ thống. Tuy nhiên ngày nay, chương trình dạy học định hướng nội dung không còn thích hợp, do những nguyên nhân sau: Thứ nhất, tri thức thay đổi từng ngày và lạc hậu nhanh chóng. Vì vậy nội dung chương trình cứng nhắc được cung cấp trong sách giáo khoa và những tri thức được tiếp thu trong nhà trường cũng nhanh chóng bị lạc hậu. Có một câu nói ẩn dụ vui mà có có ý nghĩa thật sâu sắc: Đừng cho học sinh cá, hãy đưa cho họ một chiếc cần câu. Có thể nói, việc rèn luyện phương pháp học tập ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong việc chuẩn bị cho con người có khả năng học tập suốt đời. Thứ hai, việc kiểm tra đánh giá chủ yếu dựa vào khả năng tái hiện tri thức mà ít định hướng vào khả năng vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn. Biểu hiện cụ thể của điều này, đó là phần nhiều đề kiểm tra hiện nay vẫn thiên về tái hiện kiến thức trên lớp mà chưa gắn với đời sống thực tiễn hiện nay, thiếu phần liên hệ của học sinh trước kiến thức thực tế. Thầy đọc, trò ghi, thi thuộc, nên cuối cùng chữ thầy lại trả thầy. Thứ ba, phương pháp dạy học còn mang tính thụ động và ít chú trọng đến khả năng ứng dụng nên sản phẩm giáo dục là những con người mang tính thụ động, hạn chế khả năng sáng tạo và năng động. Ví dụ: Do giáo dục thiếu toàn diện nên một thực trạng đáng báo động trong việc dạy học ở trường PT hiện nay đó là vẫn đang nặng về kĩ năng viết trong khi đó kĩ năng nói chưa thực sự được chú trọng. Học sinh không tự tin giới thiệu về mình hoặc trình bày thuyết trình một vấn đề trước đám đông. Điều đó có nghĩa là giáo dục chưa đáp ứng được đầy đủ mục tiêu đặt ra: giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo. Đầu ra giáo dục không đáp ứng được yêu cầu xã hội, học sinh, sinh viên ra trường không xin được việc làm do thiếu kĩ năng mềm và thiếu kinh nghiệm thực tiễn. Con đường giáo dục dường như đang đưa con người đi vào những lối mòn, những ngõ cụt đầy bế tắc. Xuất phát từ những yêu cầu của toàn cầu hóa và xã hội tri thức đối với giáo dục. Ngày nay, xã hội ngày một phát triển nên nhiệm vụ xã hội đặt ra cho giáo dục ngày càng cao hơn. Giáo dục cần phải giải quyết những mâu thuẫn tri thức ngày càng tăng mà thời gian đào tạo lại có hạn. Giáo dục cần đào tạo con người đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường lao động và nghề nghiệp cũng như cuộc sống, có khả năng hòa nhập và cạnh tranh quốc tế, đặc biệt là: - Năng lực hành động - Tính sáng tạo năng động. - Tính tự lực và trách nhiệm. - Năng lực cộng tác làm việc. - Năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp - Khả năng học tập suốt đời. Do đó, chúng ta cần phải chuyển sang dạy học định hướng phát triển năng lực để giúp cho học sinh hoàn thiện bản thân mình một cách toàn diện về trí, đức, thể, mĩ và có thể vận dụng được nội dung kiến thức đã học được để phát triển năng lực của bản thân và tạo điều kiện phát triển chung cho toàn xã hội. b. Phân tích khái niệm và cấu trúc của khái niệm năng lực * Khái niệm năng lực Năng lực có nguồn gốc tiếng La-tinh competentia có nghĩa là gặp gỡ. Ngày nay khái niệm năng lực được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Năng lực là một thuộc tính tâm lí phức hợp, là điểm hội tụ nhiều yếu tố như tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách nhiệm đạo đức. Năng lực là những khả năng và kĩ xảo học được hoặc sẵn có của cá thể nhằm giải quyết các tình huống xác định, cũng như sự sẵn sàng về động cơ, xã hội và khả năng vận dụng các cách giải quyết vấn đề một cách có trách nhiệm và hiệu quả trong những tình huống linh hoạt. Có nhiều loại năng lực khác nhau. Năng lực hành động là một loại năng lực. Khái niệm phát triển năng lực ở đây cũng được hiểu đồng nghĩa phát triển năng lực hành động. Tóm lại, năng lực là khả năng thực hiện có hiệu quả và có trách nhiệm các hành động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội hay cá nhân trong những tình huống khác nhau trên cơ sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và kinh nghiệm cũng như sự sẵn sàng hành động. * Phân tích khái niệm năng lực Ta thấy rằng năng lực không chỉ bao gồm tri thức mà còn bao gồm việc ứng dụng tri thức đó như thế nào vào trong thực tiễn cuộc sống và giải quyết vấn đề. Trong chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực, khái niệm năng lực được sử dụng như sau: - Năng lực liên quan đến bình diện mục tiêu dạy học: mục tiêu dạy học của môn học được mô tả thông qua các năng lực cần hình thành; - Trong các môn học, những nội dung và hoạt động cơ bản được liên kết với nhau nhằm hình thành các năng lực; - Năng lực là sự kết hợp của tri thức, hiểu biết, khả năng, mong muốn ; - Mục tiêu hình thành năng lực định hướng cho việc lựa chọn, đánh giá mức độ quan trọng và cấu trúc hóa các nội dung và hoạt động và hoạt động dạy học về mặt phương pháp; - Năng lực mô tả việc giải quyết những nhiệm vụ trong các tình huống: ví dụ như đọc một văn bản cụ thể Nắm vững và vận dụng được các phép tính cơ bản ; - Các năng lực chung cùng với các năng lực chuyên môn tạo thành cơ sở chung trong việc giáo dục và dạy học; - Mức độ đối với sự phát triển năng lực có thể được xác định trong các chuẩn: Đến một thời điểm nhất định nào đó, HS có thể, cần phải đạt được những gì. * Cấu trúc năng lực - Cấu trúc chung của năng lực hành động được mô tả là sự kết hợp của bốn năng lực thành phần sau: năng lực chuyên môn, năng lực phương pháp, năng lực xã hội, năng lực cá thể. - Năng lực chuyên môn: Là khả năng thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn cũng như khả năng đánh giá kết quả chuyên môn một cách độc lập, có phương pháp và chính xác về mặt chuyên môn. Trong đó bao gồm cả khả năng tư duy lô gic, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khả năng nhận biết các mối quan hệ hệ thống và quá trình. Năng lực chuyên môn hiểu theo nghĩa hẹp là năng lực nội dung chuyên môn, theo nghĩa rộng bao gồm cả năng lực phương pháp chuyên môn. - Năng lực phương pháp: Là khả năng đối với những hành động có kế hoạch, định hướng mục đích trong việc giải quyết các nhiệm vụ và vấn đề. Năng lực phương pháp bao gồm năng lực phương pháp chung và phương pháp chuyên môn. Trung tâm của phương pháp nhận thức là những khả năng tiếp nhận, xử lý, đánh giá, truyền thụ và trình bày tri thức. - Năng lực xã hội: Là khả năng đạt được mục đích trong những tình huống xã hội cũng như trong những nhiệm vụ khác nhau trong sự phối hợp sự phối hợp chặt chẽ với những thành viên khác. - Năng lực cá thể: Là khả năng xác định, đánh giá được những cơ hội phát triển cũng như những giới hạn của cá nhân, phát triển năng khiếu, xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển cá nhân, những quan điểm, chuẩn giá trị đạo đức và động cơ chi phối các thái độ và hành vi ứng xử. Mô hình cấu trúc năng lực trên đây có thể cụ thể hoá trong từng lĩnh vực chuyên môn, nghề nghiệp khác nhau. Mặt khác, trong mỗi lĩnh vực nghề nghiệp người ta cũng mô tả các loại năng lực khác nhau. Ví dụ năng lực của GV bao gồm những nhóm cơ bản sau: năng lực dạy học; năng lực giáo dục; năng lực đánh giá, chẩn đoán và tư vấn; năng lực phát triển nghề nghiệp và phát triển trường học. Từ cấu trúc của khái niệm năng lực cho thấy giáo dục định hướng phát triển năng lực không chỉ nhằm mục tiêu phát triển năng lực chuyên môn bao gồm tri thức, kỹ năng chuyên môn mà còn phát triển năng lực phương pháp, năng lực xã hội và năng lực cá thể. Những năng lực này không tách rời nhau mà có mối quan hệ chặt chẽ. Năng lực hành động được hình thành trên cơ sở có sự kết hợp các năng lực này. c. Chỉ ra những đặc điểm của mục tiêu, nội dung, phương pháp, và đánh giá theo quan điểm dạy học định hướng phát triển năng lực * Mục tiêu - Học sinh nắm được hệ thống tri thức khoa học khách quan về nhiều lĩnh vực khác nhau. - Chất lượng học tập đầu ra được bảo đảm, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. - Nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức, rèn cho học sinh khả năng giải quyết vấn đề gắn với thực tiễn. * Nội dung Nội dung dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ giới hạn trong tri thức và kỹ năng chuyên môn mà gồm những nhóm nội dung nhằm phát triển các lĩnh vực năng lực: - Giáo dục cho học sinh nội dung chuyên môn: các tri thức chuyên môn (các khái niệm, phạm trù, quy luật, mối quan hệ); các kĩ năng chuyên môn; ứng dụng, đánh giá chuyên môn. Từ đó giúp phát triển năng lực chuyên môn. - Giáo dục cho học sinh phương pháp chiến lược: lập kế hoạch học tập, kế hoạch làm việc; các phương pháp nhận thức chung: thu thập, xử lí, đánh giá, trình bày thông tin; các phương pháp chuyên môn. Từ đó phát triển năng lực phương pháp. - Giáo dục cho học sinh giao tiếp xã hội: làm việc nhóm; tạo điều kiện cho sự hiểu biết về phương diện xã hội; học cách ứng xử, tinh thần trách nhiệm, khả năng giải quyết xung đột. Từ đó phát triển năng lực xã hội. - Giáo dục cho học sinh tự trải nghiệm, đánh giá: tự đánh giá điểm mạnh, điểm yếu; xây dựng kế hoạch phát triển cá nhân; đánh giá, hình thành các chuẩn mực đạo đức và văn hóa, lòng tự trọngTừ đó phát triển năng lực cá thể. * Phương pháp Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý tích cực hoá HS về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ GV- HS theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập phức hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp. * Đánh giá Theo quan điểm phát triển năng lực, việc đánh giá kết quả học tập không lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trung tâm của việc đánh giá. Đánh giá kết quả học tập cần chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Câu 2. Đề xuất một số biện pháp đổi mới dạy học môn học theo định hướng phát triển năng lực: Để có thể thực hiện được các phương pháp đổi mới dạy học thì trước hết ngành giáo dục cần xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên cốt cán của từng địa phương và phải bồi dưỡng, trang bị đầy đủ cho đội ngũ giáo viên kiến thức về việc đổi mới PPDH đồng thời cải tiến những hình thức và cách thức làm việc kém hiệu quả của GV và HS, sử dụng những hình thức và cách thức hiệu quả hơn nhằm nâng cao chất lượng dạy học, phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực của học sinh. Trong nội dung này, nhóm chúng tôi đã thảo luận và thống nhất một số biện pháp đổi mới dạy học môn học theo định hướng phát triển năng lực như sau: 1. Đổi mới việc thiết kế và chuẩn bị bài dạy học Đổi mới phương pháp dạy học cần bắt đầu từ việc đổi mới thiết kế và chuẩn bị bài dạy học. Trong việc thiết kế bài dạy học, cần xác định mục tiêu dạy học về kiến thức, kĩ năng một cách rõ ràng, có thể đạt được và có thể kiểm tra, đánh giá được. Trong việc xác định nội dung dạy học, không chỉ chú ý đến các kiến thức kĩ năng chuyên môn mà cần chú ý những nội dung có thể phát triển các năng lực chung khác như năng lực phương pháp, năng lực xã hội, năng lực cá thể. Trong việc thiết kế phương pháp dạy học cần bắt đầu từ bình diện vĩ mô: xác định quan điểm, hình thức tổ chức dạy học phù hợp. Từ đó xác định các phương pháp dạy học cụ thể và thiết kế hoạt động của giáo viên và học sinh theo trình tự các tình huống dạy học nhỏ ở bình diện vi mô Sử dụng công nghệ thông tin, chẳng hạn sử dụng phần mềm trình diễn PowerPoint là một phương hướng cải tiến việc thiết kế bài dạy học cũng như hoạt động dạy học. Ví dụ: Tìm hiểu về Mặt phẳng nghiêng, giáo viên xác định rõ mục tiêu dạy học theo cấu trúc năng lực: - Năng lực chuyên môn: + Nêu ra được nhận xét sử dụng mặt phẳng nghiêng có thể kéo (đẩy) vật lên dễ dàng hơn. + Nêu ra được nhận xét mặt phẳng nghiêng có độ nghiêng càng nhỏ thì kéo (đẩy) vật lên càng dễ dàng. + Kể tên được một số ứng dụng của mặt phẳng nghiêng trong cuộc sống. - Năng lực xã hội: Rèn luyện năng lực hoạt động nhóm để tìm ra phương án thí nghiệm, bố trí, tiến hành và thu thập kết quả. - Năng lực cá thể: Đưa ra các ý kiến đánh giá ưu, nhược điểm trong phương án thí nghiệm của nhóm và phương án thí nghiệm của các nhóm khác trong lớp - Năng lực phương pháp: Đưa được phương án lựa chọn mặt phẳng nghiêng hợp lí cho việc giải quyết vấn đề được đặt ra. 2. Cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống Các phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, luyện tập luôn là những phương pháp quan trọng trong dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học truyền thống quen thuộc mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của chúng. Bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học mới, đặc biệt là những phương pháp và kĩ thuật dạy học phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh. Chẳng hạn có thể tăng cường tính tích cực nhận thức của học sinh trong thuyết trình, đàm thoại theo quan điểm dạy học giải quyết vấn đề. Ví dụ: Khi dạy bài dòng điện trong các môi trường chất khí giáo viên có thể cho học sinh chia nhóm nhận nhiệm vụ tìm hiểu qua các kênh thông tin từ đó thuyết trình để giải thích các hiện tượng sét, hồ quang điện, cột thu lôi, cách tránh sét trong thực tế cuộc sống. Ngoài việc thuyết trình theo phương pháp truyền thống học sinh cần hoạt động nhóm, sử dụng tranh ảnh, và các ứng dụng công nghệ thông tin vào bài thuyết trình như trình chiếu powerpoint, video 3. Kết hợp đa dạng các phương pháp, hình thức dạy học linh hoạt Không có một phương pháp dạy học toàn năng phù hợp với mục tiêu và nội dung dạy học. Mỗi phương pháp và nội dung dạy học có những ưu điểm và nhược điểm và giới hạn sử dụng riêng. Vì vậy việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức trong quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học. Tích hợp công nghệ thông tin vào các môn học Thường xuyên sử dụng các phương pháp kích thích tư duy và sự chủ động của người học (PP nêu vấn đề, PP đàm thoại, dạy học dự án, dạy học theo tình huống ) Tăng cường các hoạt động thực hành vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, chú trọng giáo dục đạo đức, giá trị sống, rèn luyện kĩ năng sống, hiểu biết xã hội cho học sinh. Thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, khuyến khích tổ chức bán trú cho học sinh một cách linh hoạt, đa dạng hoạt động bán trú, có thể tổ chức các hoạt động như xem phim, xem tivi, đọc sách, tham gia các trò chơi dân gian, cùng với nghỉ trưa trong thời gian giữa hai buổi học. Có thể sử dụng kết hợp các hình thức tổ chức học tập như sau: dạy học toàn lớp, dạy học nhóm, nhóm đôi, dạy học cá thể Sử dụng các phương pháp chuyên biệt như đóng vai, nghiên cứu trường hợp, dự án. Ví dụ: Khi dạy học kiến thức vận tốc truyền âm trong không khí, có thể cho học sinh chia nhóm tìm hiểu các ứng dụng của kiến thức này và có thể tạo ra những mô hình (thí nghiệm) đơn giản như đàn nước, điện thoại ống bơ, và sau tiết học tổ chức ngoại khóa một cuộc thi nhỏ sử dụng chính những mô hình mà các em đã chế tạo. Như vậy, giáo viên đã sử dụng kết hợp linh hoạt các phương pháp, hình thức dạy học như hoạt động theo nhóm, phương pháp đàm thoại, tổ chức hoạt động ngoại khó 4. Vận dụng dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề được xem như hệ thống các quy tắc áp dụng các thủ pháp dạy học có tính đến logic của các thao tác tư duy và các quy luật của hoạt động nhận thức của học sinh. HS được đặt trong một tình huống có vấn đề, đó là tình huống chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, thông qua việc giải quyết vấn đề giúp HS tri thức, kĩ năng và phương pháp nhận thức. Do vậy dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề không những phù hợp hơn với tinh thần dạy học phát triển, với nhiệm vụ phát triển năng lực sáng tạo và tự lực nhận thức của học sinh, biến kiến thức của họ không chỉ thành niềm tin mà còn phù hợp với đặc điểm của môn học Ví dụ: Vận dụng dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề để thiết kế tiến trình xây dựng kiến thức "Định luật bảo toàn động lượng" (theo Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình, SGK lớp 10 THPT, Vật lí nâng cao - Bộ GD&ĐT, HN.2006). Làm nảy sinh vấn đề - Xét bài toán tương tác giữa hai vật khối lượng 1 m , 2 m trong một hệ kín với vận tốc ban đầu lần lượt là 1 v ur , 2 v uur . Sau khi tương tác với nhau, vận tốc của chúng thay đổi tương ứng thành ' 1 v ur , ' 2 v uur tức là chúng có thu được gia tốc. Phát biểu vấn đề - Có biểu thức nào biểu thị mối liên hệ giứa các vận tốc , và , của hai vật 1 m , 2 m trong hệ kín trước và sau tương tác không? Giải quyết vấn đề a. GQVĐ nhờ suy luận lí thuyết: - Suy đoán giải pháp GQVĐ: Từ mối liên hệ giữa các lực tương tác theo định luật 3 Niuton, biểu diễn các lực theo định luật 2 Niuton (theo a ), biểu diễn các a theo v , v theo v của vật trước và sau tương tác, ta sẽ thấy được mối liên hệ giữa các vận tốc của hai vật trong hệ trước và sau tương tác. - Thực hiện giải pháp đã suy đoán: + Định luật 3 Niuton: 12 21 F F= uur uur + Định luật 2 Niuton: 12 1 1 F m a= uur ur ; 21 2 2 F m a= uur uuur . + Biểu thức tính a : ' 1 1 1 v v a t = ur ur ur ; ' 2 2 2 v v a t = uur uur uur . ' ' 1 1 2 2 1 1 2 2 1 2 v v v v m a m a m m t t = = ur ur uur uur uur uuur Rút ra: ' ' 1 1 2 2 1 1 2 2 m v m v m v m v+ = + ur uur ur uur b. Kiểm nghiệm kết quả suy ra từ suy luận lí thuyết nhờ thí nghiệm: - Xác định nội dung cần kiểm nghiệm: trường hợp vật 1 chuyển động không có ma sát với vận tốc 1 v ur va chạm mềm với vật 2 đứng yên. Suy luận từ kết quả trên ra hệ quả: ' 1 1 1 2 ( )m v m m v= + ur r Sau tương tác, hai xe cùng chuyển động với ' v r cùng chiều với 1 v uur và ' 1 1 2 m s s m m = + (trong cùng thời gian t ) - Thiết kế phương án thí nghiệm để kiểm nghiệm hệ quả: sử dụng thiết bị thí nghiệm cần rung điện. - Tiến hành thí nghiệm: đo s và ' s , xác nhận hệ quả trên là đúng. Kết luận Đối chiếu kết quả thí nghiệm với kết quả đã thu được từ suy luận lí thuyết, rút ra: ' ' 1 1 2 2 1 1 2 2 m v m v m v m v+ = + ur uur ur uur - Khái niệm động lượng: động lượng của một vật chuyển động là một đại lượng vật lí vecto đặc trưng cho khả năng truyền tương tác của vật, được đo bằng tích của khối lượng và vận tốc của vật p mv = ur r . - Định luật bảo toàn động lượng: Vector tổng động lượng của hệ kín được bảo toàn. Căn cứ vào tiến trình nêu trên có thể xây dựng kế hoạch dạy học cụ thể. 5. Vận dụng dạy học theo tình huống Dạy học theo tình huống là một quan điểm dạy học, trong đó việc dạy học được tổ chức theo 1 chủ đề phức hợp gắn với các tình huống thực tiễn cuộc sống và nghề nghiệp. Quá trình học tập được tổ chức trong một môi trường học tập tạo điều kiện cho HS kiến tạo tri thức theo cá nhân và môi trường tương tác xã hội và học tập. Chủ đề dạy học phức hợp là những chủ đề có nội dung liên quan đến nhiều môn học hoặc lĩnh vực tri thức khác nhau gắn với thực tiễn. Việc dạy học này góp phần khắc phục tình trạng xa rời thực tiễn của các môn khoa học chuyên môn, rèn luyện cho HS năng lực tự giải quyết các vấn đề phức hợp, liên môn. Phương pháp nghiên cứu trường hợp là một phương pháp dạy học điển hình của dạy học theo tình huống, trong đó HS tự lực giải quyết một tình huống điển hình, gắn với thực tiễn thông qua làm việc nhóm. Vận dụng dạy học theo các tình huống gắn với thực tiễn là con đường quan trọng để gắn đào tạo trong nhà trường với thực tiễn đời sống, góp phần khắc phục tình trạng giáo dục hàn lâm, xa rời thực tiễn hiện nay của nhà trường phổ thông. Ví dụ: Khi dạy học về bài Mặt phẳng nghiêng giáo viên có thể đưa ra tình huống để bắt đầu vào bài như sau: Đặt học sinh vào tình huống: Giả sử lớp chúng ta đang trên đường đi từ thiện, trên xe có rất nhiều thùng đồ cho các bạn vùng cao như sách vở, quần áo, đồ ănVì đường lên núi nên rất xấu, có nhiều ổ gà và một bên là thung lũng, đột nhiên có một thùng đồ rất nặng trên xe do chúng ta không cẩn thận làm rơi xuống một cái hố sâu? Làm thế nào để chúng ta có thể lấy được thùng đồ đó lên được dễ dàng? Coi rằng chúng ta sẽ có tất cả những thứ cần thiết cho các phương án. Từ tình huống này học sinh sẽ đưa ra rất nhiều phương án để giải quyết vấn đề. Trong các phương án học sinh đưa ra sẽ liên quan đến các loại máy cơ đơn giản và trong đó có nói tới sử dụng mặt phẳng nghiêng. Vậy từ những ý tưởng của học sinh, giáo viên có thể dẫn dắt để đưa tới nhu cầu cần học bài Mặt phẳng nghiêng, từ đó kích thích được hứng thú, khả năng sáng tạo,tạo phát triển các năng lực giải quyết vấn đề trong thực tiễn cho học sinh 6. Vận dụng dạy học định hướng hành động Dạy học định hướng hành động là quan điểm dạy học nhằm làm cho hoạt động trí óc và hoạt động chân tay kết hợp chặt chẽ với nhau. Vận dụng dạy học ĐHHĐ có ý nghĩa quan trọng cho việc thực hiện nguyên lý giáo dục kết hợp lý thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội. Dạy học theo dự án là một hình thức điển hình của dạy học ĐHHĐ, trong đó HS tự lực thực hiện trong nhóm một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với các vấn đề thực tiễn, kết hợp lý thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể công bố. Trong dạy học theo dự án có thể vận dụng nhiều lý thuyết và quan điểm dạy học hiện đại như: thuyết kiến tạo, dạy học định hướng HS, dạy học hợp tác, dạy học khám phá, sáng tạo, dạy học theo tình huống và dạy học định hướng hành động. Ví dụ: Khi tổng kết chương dao động cơ giáo viên giao nhiệm vụ cho các nhóm xây dựng các kiến thức cơ bản theo sơ đồ tư duy, từ đó giúp học sinh được kiến thức cơ bản của chương và có kế hoạch ôn tập khoa học. 7. Vận dụng phương pháp dạy học theo trạm Dạy học theo trạm là một phương pháp tổ chức dạy học trong đó người học tích cực, chủ động thực hiện những nhiệm vụ học tập độc lập có liên quan đến nội dung bài học. Thông qua quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập tại các trạm, ngoài mục tiêu truyền đạt kiến thức, dạy học theo trạm còn kích thích hứng thú say mê nghiên cứu, rèn luyện năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp, gắn lí thuyết với thực hành, tư duy và hành động, rèn luyện năng lực cộng tác làm việc theo nhóm 8. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin trong dạy học. Phương tiện dạy học (PTDH) có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH), nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiêm thực hành trong dạy học. Đa phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương tiện dạy học trong dạy học hiện đại. Đa phương tiện và công nghệ thông tin có nhiều khả năng ứng dụng trong dạy học. Bên cạnh việc sử dụng đa phương tiện như một phương tiện trình diễn cần tăng cường sử dụng các phần mềm dạy học cũng như các phương pháp dạy học sử dụng mạng điện tử (E- Learning). Phương tiện dạy học mới cũng hỗ trợ việc tìm ra và sử dụng các phương pháp dạy học mới. Webquest là một ví dụ về phương pháp dạy học mới với phương tiện mới là dạy học sử dụng mạng điện tử, trong đó HS khám phá tri thức trên mạng một cách có định hướng. Hiện nay, ở nhiều trường học đã áp dụng những mô hình dạy học dựa trên giáo trình đã được lập trình sẵn trên các bảng tương tác, bảng thông minh. Đặc biệt là bộ môn Tiếng Anh. Nội dung bài học được số hóa và cấu trúc một cách khoa học. Với nhiều hình ảnh, âm thành sinh động giúp học sinh hứng thú với bài học vì các em có cảm giác khám phá và như tham gia một trò chơi. Ví dụ: Khi dạy kiến thức đặc điểm của sự rơi tự do: Rơi tự do có phương thẳng đứng bằng trực quan thì chúng ta không đủ cơ sở để đưa ra kết luận. Người giáo viên có thể sử dụng phần mềm mô phỏng Galile để đưa ra hình ảnh trực quan từ đó giúp học sinh tự rút ra kết luận, tránh việc tiếp nhận thông tin một cách thụ động bằng cách thông báo 9. Sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo Kỹ thuật dạy học là những cách thức hành động của giáo viên và học sinh trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Các kỹ thuật dạy học là đơn vị nhỏ nhất của phương pháp dạy học. Có những kỹ thuật dạy học chung, có những kỹ thuật dạy học đặc thù cho từng phương pháp dạy học. Ví dụ về các kỹ thuật dạy học như: kỹ thuật đặt câu hỏi trong đàm thoại, kỹ thuật động não, kỹ thuật bể cá, kỹ thuật tia chớp. kỹ thuật 3 lần 3, kỹ thuật XYZ Càng ngày càng có nhiều kỹ thuật mới chú trọng phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học được các nhà giáo dục phát hiện và khám phá. 10. Tăng cường các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn. PPDH có mối quan hệ biện chứng với nội dung dạy học.Vì vậy bên cạnh những phương pháp chung có thể sử dụng cho nhiều bộ môn khác nhau thì việc sử dụng các phương pháp đặc thù có vai trò quan trọng trong dạy học bộ môn. Ví dụ như đối với các bộ môn khoa học kĩ thuật: sẽ được ưu tiên sử dụng các phương pháp dạy học trong dạy học kỹ thuật như trình diễn vật phẩm kỹ thuật, làm mẫu theo tác, phân tích sản phẩm kỹ thuật, thiết kế mỹ thuật, lắp ráp mô hình, các dự án trong dạy học kỹ thuật. Đặc biệt với môn Vật lí phương pháp thực nghiệm ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc dạy học hiện nay Với các bộ môn về khoa học xã hội như Văn, Sử, Địa thì các phương pháp truyền thống như thuyết trình, nêu vấn đề đang chiếm ưu thế và hiện nay thì nhiều phương pháp mới được sử dụng như phương pháp dạy học giải quyết vấn đề, thảo luận nhóm, hỏi- đáp 11. Bồi dưỡng phương pháp học tập cho học sinh. Phương pháp học tập một cách tự lực đóng vai trò quan trọng trong việc tích cực hóa, phát huy tính sáng tạo của học sinh. Có những phương pháp nhận thức chung như phương pháp thu thập, xử lý, đánh giá thông tin, phương pháp tổ chức làm việc, phương pháp làm việc nhóm, lại có những phương pháp học tập chuyên biệt cho từng bộ môn. Bằng nhiều hình thức khác nhau, giáo viên cung cấp, hướng dẫn và truyền đạt cho học sinh các phương pháp học tập để các em có thể tự lựa chọn một phương pháp học tập hiệu quả và phù hợp với bản thân cũng như với từng môn học khác nhau. Cũng nên tổ chức các buổi trao đổi, xemina hay tự học để giáo viên hướng dẫn học sinh cách học và các em tự trao đổi, bàn bạc, học tập thầy cô, bạn bè đồng thời rút kinh nghiệm nếu phương pháp học của mình chưa hiệu quả, chưa khoa học. 12. Cải tiến việc kiểm tra đánh giá Đổi mới phương pháp dạy học cần gắn liền với đổi mới về đánh giá quá trình dạy học cũng như đổi mới việc kiểm tra đánh giá thành tích của học sinh.Giáo viên cần bồi dưỡng cho học sinh những kỹ thuật thông tin nhằm tạo điều kiện cho học sinh tham gia đánh giá và cải tiến quá trình dạy học. Trong quá trình đánh giá thành tích học tập của học sinh không chỉ đánh giá kết quả mà còn chú ý cả quá trình học tập của học sinh. Đánh giá thành tích học tập theo quan điểm phát triển năng lực không giới hạn vào khả năng tái hiện tri thức mà còn chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp. Trong xu hướng xây dựng các bài tập cũng như các bài kiểm tra, bài thi theo quan điểm phát triển năng lực người ta chia thành 3 mức độ chính của nhiệm vụ như sau: + Tái hiện: trọng tâm là tái hiện, nhận biết các tri thức đã học. + Vận dụng: trọng tâm là việc ứng dụng tri thức đã học để giải quyết các nhiệm vụ trong những tình huống khác nhau; phân tích; tổng hợp; so sánh để xác định mối quan hệ giữa chúng. + Đánh giá: Trọng tâm là vận dụng tri thức, kỹ năng đã học để giải quyết vấn đề, đánh giá các phương án khác nhau và quyết định. đánh giá, xác định các giá trị. Giáo viên cần sử dụng phối hợp các hình thức và phương pháp kiểm tra, đánh giá khác nhau. Kết hợp kiểm tra miệng, kiểm tra viết và bài tập thực hành. Kết hợp giữa trắc nghiệm tự khách quan và trắc nghiệm tự luận. Mỗi phương pháp lại có những ưu điểm và hạn chế khác nhau, cũng phụ thuộc vào sở trường, sở đoản hay khả năng, tính cách, đặc điểm khác nhau của học sinh. Tóm lại, có rất nhiều phương hướng đổi mới dạy học môn học theo định hướng phát triển năng lực như đổi mới về thiết kế, kế hoạch bài giảng, phương pháp dạy học, hình thức tổ chức và những cách tiếp cận khác nhau, trên đây là một số phương hướng chung. Mỗi giáo viên tùy theo khả năng và kinh nghiệm, trình độ, hoàn cảnh của bản thân, môi trường để xác định những phương hướng riêng để cải tiến phương pháp dạy học và cả năng lực cá nhân. Câu 3. Trình bày một ví dụ phác thảo kế hoạch dạy học theo định hướng phát triển năng lực trong đó thể hiện sự vận dụng một hay một số biện pháp đã nêu ở câu 2. Áp dụng lí thuyết dạy học vào bài Mặt phẳng nghiêng Vật Lí 6 BÀI 14 : Mặt phẳng nghiêng I. Mục tiêu Nhóm năng lực Mục tiêu cụ thể Năng lực chuyên môn - Nêu ra được nhận xét sử dụng mặt phẳng nghiêng có thể giúp kéo (đẩy) vật lên dễ dàng hơn. - Nêu ra được nhận xét mặt phẳng nghiêng có độ nghiêng càng nhỏ thì kéo (đẩy) vật lên càng dễ dàng. - Giải được một số bài tập liên quan đến kiến thức Mặt phẳng nghiêng Năng lực về phương pháp -Bằng kinh nghiệm thực tế, kể tên được một số mặt phẳng nghiêng được sử dụng trong cuộc sống và chỉ ra mối quan hệ giữa độ nghiêng của mặt phẳng nghiêng và lực cần đưa vật lên. -Đề xuất được giả thuyết: lực kéo vật lên theo mặt phẳng nghiêng nhỏ hơn trọng lượng của vật. -Đưa ra được phương án thí nghiệm kiểm tra giả thuyết, lập kế hoạch, bố trí, tiến hành và xử lí được số liệu thu được. -Đánh giá được kết quả thu được, từ đó rút ra kết luận về tính đúng đắn của giả thuyết. Năng lực xã hội -Rèn luyện được năng lực hoạt động nhóm trong nhiệm vụ cụ thể thông qua việc trao đổi các thông tin, các kết quả, thảo luận các phương án thí nghiệm. -Sử dụng được ngôn ngữ Vật Lí trao đổi với bố mẹ về việc lựa chọn mặt phẳng nghiêng như thế nào sẽ giúp đẩy xe máy lên nhà dễ dàng hơn. Năng lực cá thể -Đưa ra các ý kiến đánh giá ưu, nhược điểm trong phương án thí nghiệm của nhóm và phương án thí nghiệm của các nhóm khác trong lớp. -So sánh và đánh giá được các ứng dụng của mặt phẳng nghiêng trong cuộc sống: thang cuộn siêu thị, cầu thang, đinh vít II. Phương pháp kiểm tra, đánh giá - Kiểm tra, đánh giá năng lực chuyên môn: Gợi mở, vấn đáp, hoạt động nhóm, làm bài tập tự luận và thông qua kết quả trình bày. - Kiểm tra, đánh giá năng lực phương pháp: Quan sát, đánh giá thông qua rubric. - Kiểm tra, đánh giá năng lực xã hội: Khả năng hoạt động nhóm, thảo luận và trao đổi thông tin, bài tập tình huống. - Kiểm tra, đánh giá năng lực cá thể: Thông qua số lượng và chất lượng các đánh giá. III. Chuẩn bị - Giáo viên: Giáo án, SGK, dụng cụ giảng dạy, phiếu học tập, video xây dựng kim tự tháp. - Học sinh: Đọc trước bài IV. Tiến trình bài học theo nội dung đổi mới Nội dung Hoạt động giáo viên và học sinh Lập luận về các mục tiêu phát triển năng lực Mặt phẳng nghiêng giúp đẩy (kéo) vật lên dễ dàng hơn. -HS đã biết cấu tạo mặt phẳng nghiêng từ bài trước, GV yêu cầu HS kể ra hình ảnh mặt phẳng nghiêng trong cuộc sống và công dụng của nó. HS có thể kể ra các ứng dụng của mặt phẳng nghiêng với công dụng có thể kéo vật lên dễ dàng hơn hơn: mặt phẳng nghiêng giúp bố mẹ em dắt xe máy lên dễ dàng hơn. -GV đặt câu hỏi: Mặt phẳng nghiêng giúp đẩy (kéo) một vật lên dễ dàng như thế nào? Gợi ý: Lực kéo vật lên trên mặt phẳng nghiêng như thế nào so với trọng lượng của vật? (HS đã biết từ bài trước: Khi kéo vật lên theo phương thẳng đứng thì cần tác dụng một lực ít nhất bằng trọng lượng của vật.) -HS đưa ra dự đoán: Khi dùng mặt phẳng nghiêng để kéo (đẩy) một vật, ta cần dùng một lực nhỏ hơn trọng lượng của vật. -GV yêu cầu HS hoạt động nhóm: thảo luận phương án thí nghiệm kiểm tra dự đoán trên và hoàn thành khung a,b,c trong phiếu học tập 1. -Các nhóm HS lần lượt báo cáo, các nhóm còn lại nghe và nhận xét các ưu, nhược điểm. -GV chốt lại phương án thí nghiệm (dụng cụ, bố trí, các bước tiến hành); yêu cầu HS nhận dụng cụ thí nghiệm gồm có: lực kế, vật nặng, mặt phẳng nghiêng; tiến hành thí nghiệm và hoàn thiện phiếu học tập 2. (Lưu ý, các nhóm có mặt phẳng nghiêng có độ nghiêng khác Năng lực phương pháp: -Học sinh vận dụng được vốn hiểu biết đã có, tổng hợp lại để lựa chọn trong những hình ảnh đã gặp trong cuộc sống vài ứng dụng về mặt phẳng nghiêng. - HS đưa ra được dự đoán về mối liên hệ giữa lực kéo vật lên theo phương mặt phẳng nghiêng và trọng lượng của vật, thiết kế, bố trí, tiến hành được thí nghiệm kiểm tra dự đoán. Sau đó xử lí được số liệu để đưa ra kết luận. Năng lực chuyên môn: HS đã -Nêu được nhận xét mặt phẳng nghiêng giúp kéo (đẩy) một vật với một lực nhỏ hơn trọng lượng của vật. Mặt phẳng nghiêng có độ nghiêng càng nhỏ giúp kéo (đẩy) vật càng dễ dàng. -Giải được một số bài tập liên quan. Năng lực xã hội: -Hoạt động nhóm được sử dụng linh hoạt đặc biệt ở nhiệm vụ thảo luận đưa giả thuyết, thiết kế, bố trí và tiến hành thí nghiệm. Nhiệm vụ này rất cần hoạt động của tập thể. Việc trao đổi, phân tích để đưa ra những phương án tốt nhất có thể thực hiện được là việc thể hiện khá rõ năng lực xã hội. Ngoài ra, còn một số hoạt động nhóm khác trong quá trình dạy học như thảo luận nhóm nêu mối quan hệ giữa lực kéo (đẩy) vật trên mặt phẳng nghiêng và độ nghiêng của mặt phẳng nghiêng. nhau). -HS nêu kết luận: Mặt phẳng nghiêng giúp đẩy (kéo) vật lên dễ dàng hơn. Lực kéo (đẩy) vật lên nhờ mặt phẳng nghiêng nhỏ hơn trọng lượng của vật. -HS được rèn luyện khả năng làm việc nhóm, phát triển năng lực giao tiếp như biết lắng nghe, chấp nhận, biết phê phán, biết trình bày, bảo vệ ý kiến cá nhân. Trong quá trình làm việc, khả năng hoạt động nhóm còn thể hiện ở tinh thần đoàn kết, khả năng hỗ trợ, tương tác với nhau. -Việc sử dụng ngôn ngữ Vật Lí (thí nghiệm, thao tác thực hiện) để thuyết phục bố mẹ sử dụng mặt phẳng nghiêng thích hợp nhất cũng thể hiện năng lực xã hội của HS Năng lực cá thể: -HS đánh giá được khả năng bản thân để lựa chọn những phần việc được cho là phù hợp trong nhiệm vụ nhóm. -HS đánh giá được tính đúng đắn của câu trả lời các nhóm khác cũng như có ý kiến xây dựng trong chính nhóm mình. -HS còn phát triển được tư duy và tình cảm sau khi tự lực làm việc và giao tiếp với các bạn. -Đặc biệt, để phát huy năng lực cá thể, phiếu học tập số 2 đã được thiết kế với cột ghi tên người tiến hành thực hiện đo, như thế tính cá thể được chú ý phát triển tránh tính trạng HS không thực hiện thí nghiệm Mặt phẳng nghiêng có độ nghiêng càng nhỏ thì lực đẩy (kéo) vật càng nhỏ. -GV yêu cầu các nhóm đối chiếu kết quả và rút ra nhận xét về kết quả thu được: Khi kéo các vật như nhau, trên các mặt phẳng nghiêng khác nhau thì lực kéo như thế nào? HS đưa ra nhận xét lực có độ lớn khác nhau. - Yêu cầu HS thảo luận nhóm nêu mối quan hệ giữa lực kéo (đẩy) vật trên mặt phẳng nghiêng và độ nghiêng của mặt phẳng nghiêng. -Đại diện học sinh trả lời: mặt phẳng nghiêng càng nghiêng ít thì lực kéo (đẩy) vật càng nhỏ. Ứng dụng của mặt phẳng nghiêng -GV yêu cầu HS xem một đoạn phim thuật lại các nô lệ xây dựng kim tự tháp. Yêu cầu HS thuật lại nội dung chính của đoạn phim với sự sử dụng mặt phẳng nghiêng để việc đưa những khối đá lớn lên cao dễ dàng hơn. -Mỗi nhóm có 5 phút chuẩn bị, sau đó từng thành viên lên bảng viết về ứng dụng của mặt phẳng nghiêng trong cuộc sống: thang cuộc ở Big C, ốc vít, cầu thang, Sau đó, đổi chéo nhau, đánh giá đúng, sai về các phương án đội bạn đã liệt kê. Bài tập tình huống Ở nhà con đang có 3 tấm gỗ dày như nhau có thể sử dụng làm mặt phẳng nghiêng với kích thước 30 cm x 100 cm; 40 cm x 40 cm, 30 cm x 80 cm. Tấm gỗ nào dùng làm mặt phẳng nghiêng là tối ưu nhất? Bằng kiến thức đã học, hãy tiến hành thí nghiệm chứng minh cho bố mẹ thấy nhận định của em là đúng. Củng cố, tổng kết GV nhấn mạnh 2 kiến thức cơ bản của bài học. GV tổng kết các nhiệm vụ đã thực hiện. Yêu cầu HS thực hiện một số bài tập trong SGK, SBT PHIẾU HỌC TẬP SỐ I PHIẾU HỌC TẬP 2: So sánh lực kéo vật trên mặt phẳng nghiêng và trọng lượng của vật? Độ nghiêng của mặt phẳng nghiêng có ảnh hưởng như thế nào đến lực kéo vật trên mặt phẳng nghiêng? 1. Các bước đo độ lớn của một lực bằng lực kế? Điền từ vào chỗ trống: phương, lực cần đo, vạch số 0 2. a. Đo trọng lượng của một trong các vật sau: quyển SGK Vật lí, hộp bút, bút, quyển vở, kính. Sau đó hỏi các bạn trong nhóm và ghi lại kết quả của các bạn. b. Đo lực tác dụng lên vật để đưa vật lên cao bằng cách sử dung 2 mặt phẳng nghiêng có chiều dài khác nhau? Ghi lại kết quả vào bảng STT Vật Trọng lượng (N) Lực kéo trên mặt phẳng nghiêng có chiều dài l=. (cm) Người tiến hành đo 1 SGK Vật lí 6 N N 2 Vở N N 3 2 quả nặng 50g N N 4 Hộp bút N N 3. Sử dụng các từ trong ô vuông, điền từ cò thiếu vào chỗ trống: Ít nhất bằng lớn hơn nhỏ hơn a. Khi kéo (đẩy) trực tiếp một vật lên cao, cần sử dụng một lựctrọng lượng của vật. b. Khi sử dụng mặt phẳng nghiêng để kéo (đẩy) vật lên cao, chỉ cần dùng một lựctrọng lượng của vật. Nhóm. Lớp:. Thoạt tiên phải điều chỉnh số 0, nghĩa là phải điều chỉnh sao cho khi chưa đo lực, kim chỉ thị nằm đúng Cho tác dụng vào lò xo của lực kế. Phải cầm vào vỏ lực kế và hướng sao cho lò xo của lực kế nằm dọc theo của lực cần đo. càng lớn càng nhỏ Mặt phẳng càng nghiêng ít thì lực cần để kéo vật lên trên mặt phẳng nghiêng đó |