Đâu là nơi thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên trong nhà tù côn đảo.
Côn Đảo là nhà tù lớn và lâu đời nhất ở nước ta, hơn một thế kỷ thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bọn tay sai đã giam cầm đày đọa hàng chục vạn chiến sỹ cách mạng và những người yêu nước thuộc nhiều thế hệ, cũng chính tại đây, các chiến sỹ Cộng sản và những nhà cách mạng Việt nam yêu nước đã thể hiện ý chí bất khuất kiên cường, thà hy sinh chứ không chịu hàng không chịu làm nô lệ, một lòng một dạ trung thành với Đảng với Tổ quốc. Năm 1962, sau khi chiếm quần đảo Côn Lôn, thực dân Pháp bắt đầu xây dựng nhà tù này hòng giam cầm những người yêu nước. Về sau này do số tù nhân ngày một nhiều, các trại giam dần được mở rộng thành một quần thể nhà tù lớn để giam giữ đàn áp và khai thác ý chí cách mạng ở tù nhân. Năm 1930, nhà tù Côn Đảo có 4 trại giam chính là: lao I, Lao II, Lao III và Lao IV. Ngoài ra, còn có một hệ thống vừa là nơi giam giữ, vừa là nơi lao dịch khổ sai như sở Đầm (nơi cấy cày trồng trọt) , Sở Tiêu (nơi lấy đá và đốn cây), Sở Chi Tồn (nơi lấy san hô, dọn tàu thủy và xay lúa), Sở Lưới (nơi đan dụng cụ đánh bắt cá), Lò Vôi (nơi nung vôi), Ban Chế (nơi làm dụng cụ rèn và mộc). Các khu trại giam được xây dựng đều cách bờ biển không xa, những công trình này đều quần tụ tập trung trong thị trấn Côn Đảo. Về cấu trúc, chung quanh mỗi trại đều có hệ thống tường đá dày kiên cố bao quanh, cao từ 4 – 5 m, nội vi thường có hai dãy nhà lớn chia thành nhiều phòng, gọi là khám giam. Ngoài ra, còn nhiều hầm tối, hệ thống xà lim xây bằng đá kiên cố, ra vào phải đi qua hai lần cửa sắt, là nơi giam giữ cấm cố những người mà kẻ thù cho là đặc biệt nguy hiểm. Bên cạnh hệ thống trại tù, bọn thống trị còn xây dựng nhiều dinh thự, nhà ở, công sở phục vụ cho bộ máy kìm kẹp, đàn áp và khai thác tù nhân. Dưới thời thống trị của Mỹ- Ngụy, hệ thống các nhà tù được mở rộng, cùng với việc xây dựng thêm 4 khu trại giam (V,VI,VII,VIII, trong đó có Trại IX đang xây dở) là các chi nhánh khác như Bến Đầm, Cỏ Ống (cách khu trung tâm chừng 10 km) để nhốt tù khi đi lao động khổ sai. Đặc trưng điển hình chế độ lao tù tàn bạo của địch là các khu “chuồng cọp Pháp” (liền khu trại IV) và “chuồng cọp Mỹ” (trại VII). Man rợ hơn chúng giam giữ đầy ải, cầm cố nhiều chiến sỹ cách mạng ngâm dưới hố phân bò, (Trại Chuồng Bò) cho đến chết. Trung bình số lượng tù nhân bị giam giữ tại Côn Đảo hàng năm là 6.000 người có năm cao nhất lên đến 12.000 người. Do chế độ lao tù khắc nghiệt tàn bạo nên mỗi năm có từ 100 đến 150 người bị chết. Có thời gian số người chết trong năm lên tới 500 – 600 người. Khi tù nhân chết chúng đưa ra chôn tại khu vực chân núi Chúa, đây vốn là một dải đất hoang rộng hơn 20.000 ha, có nhiều cồn cát. Thời kỳ đầu tên gọi là nghĩa địa Hàng Keo (do có nhiều cây keo, tức cây găng) và sau đó gọi là nghĩa trang Hàng Dương (do có nhiều cây dương, tức cây phi lao). Hơn một thế kỷ qua có tới 20.000 xác tù nhân đã được chôn vùi tại nơi đây một cách sơ sài qua loa, có chỗ hài cốt tù nhân chất chồng lên nhau nhiều lớp. Suốt 113 năm (1862 – 1975) thống trị, bọn xâm lược Pháp Mỹ đã giam cầm đày đoạ hàng chục vạn chiến sỹ Cách mạng và những người yêu nước thuộc nhiều thế hệ, chúng biến Côn Đảo thành “Địa ngục trần gian” khét tiếng. Cũng chính tại đây ý chí đấu tranh kiên cường thà hy sinh tất cả chứ không chịu đầu hàng; Khí tiết của người Cộng sản luôn giữ vững được thổi bùng như ngọn đuốc sáng. Bất chấp chế độ lao tù tàn bạo và sự đàn áp dã man của địch, nhiều lớp lý luận chính trị được tổ chức học tập, nhiều cuộc đấu tranh bảo vệ khí tiết và đòi cải thiện điều kiện sinh hoạt trong lao tù đã diễn ra bằng nhiều hình thức. Dưới sự lãnh đạo của các tổ chức đảng trong tù những người Việt Nam yêu nước liên tục đấu tranh giành thắng lợi để tự giải phóng mình, góp phần giải phóng dân tộc. Vượt ra ngoài ý muốn chủ quan của bọn thống trị, Nhà tù Côn đảo đã trở thành một trong những trường học lớn, nơi rèn luyện thử thách và đào tạo những chiến sĩ Cộng sản thành cán bộ xuất sắc, nhiều đồng chí trở thành lãnh tụ của Đảng như: Lê Hồng Phong, Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Tôn Đức thắng, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Hoàng Quốc Việt, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Văn Linh… Từ lâu Côn Đảo đã đi vào thi ca, tình cảm và sự ngưỡng mộ của nhân dân cả nước cùng bạn bè quốc tế như một vùng đất Thánh thiêng liêng, biểu tượng của các chiến sĩ Cách mạng Việt Nam yêu nước. Ngày 29/4/1979, Bộ VHTT đã ra quyết định số 54/VHQĐ đặc cách công nhận Nhà tù Côn Đảo là di tích lịch sử văn hóa. Ngày 10/5/2012, Thủ tướng Chính Phủ ra quyết định xếp hạng Nhà tù Côn Đảo là một trong 23 di tích quốc gia đặc biệt quan trọng. Hồ sơ tổng thể di tích là 1.850.695 m2 ( ≈ 190 ha ), trong đó diện tích xây dựng khoảng trên 22 ha. Trong quá trình Bảo Tàng tỉnh BR-VT nghiên cứu lập hồ sơ di tích Nhà tù Côn đảo, nhiều cuộc họp với các ban ngành trong tỉnh đi tới thống nhất tại Biên bản số 10 BB/ VHTT ngày 22/3/1998 Quy định khu vực bảo vệ và xác định 20 vị trí thuộc di tích cần đưa vào danh mục bảo tồn bảo tàng gồm:
Ngoài ra, còn một số di tích khác đã kiểm kê khoa học đăng ký lập hồ sơ đề nghị công nhận trong thời gian tới như Sở Bản Chế, Sở Cò, Nghĩa địa Tây, Miếu bà Phi Yến, bãi Sọ người, khu Mộ Cỏ Ống, địa điểm nổi dậy của tù binh Việt Minh 1952 (khu Bến Đầm), trại giam và nghĩa trang Hòn Cau, Hải Đăng Bảy cạnh… Qua thời gian tồn tại với nhiều biến động của lịch sử, hệ thống di tích Nhà tù Côn Đảo, môt số công trình bị xuống cấp trầm trọng, kết cấu mái hầu hết bị hư, vỡ lở, gỗ vì kèo bị mục, mối mọt, tường nhà, tường bao quanh trại bị đổ sập nhiều đoạn, vữa trát bị ẩm mốc tụt rớt nhiều mảng, nền nhà bị tụt bong vữa, gạch lát vỡ nhiều do mưa ngập nền, hệ thống cửa sắt, lưới thép đều bị rỉ toàn bộ, nhiều hạng mục bị sụp đổ nay còn lại đống gạch vỡ, đặc biệt hệ thống hạ tầng kỹ thụât hầu như bị hư hỏng hoàn toàn như đường nội bộ, sân, hệ thống cấp nước, cấp điện. Do ngập lụt từ nước mưa hệ thống mái có nơi bị sập làm hư hỏng. Xung quanh nhà tù cỏ mọc um tùm, độ ẩm thấp cao, cảnh quan môi trường trong các trại bị xuống cấp, theo đà này với khí hậu khắc nghiệt cùng với sự ô nhiễm môi trường sẽ làm tăng thêm sự hủy hoại di tích nếu như không có biện pháp tu bổ phục hồi nhanh chóng kịp thời. Điểm chú ý hơn là một số công trình mới xây dựng làm phá vỡ không gian cảnh quan di tích gây phản cảm khiến dư luận lên tiếng phản ứng như việc tháo gỡ tượng đài Trao áo (Vũ Văn Hiếu), xây mới khách sạn Sài gòn tuorist (cách khu vục I Trại 2 khoảng 10m), xây mới Ngân hàng công thương, Kho bạc huyện Côn Đảo. Một phần kè đá ven biển (đường Tôn Đức Thắng) với những tảng đá lớn hàng chục người khiêng – đó là dấu tích qua lao động khổ sai của tù nhân – nay hầu hết các dấu tích này đã bị san lấp và biến mất. Các đoạn tường lan can, hay những căn nhà cũ theo kiến trúc thời Pháp đường Lê Duẩn không được bảo tồn nguyên trạng, sửa chữa tùy tiện, thay vào đó là những công trình vật liệu kiến trúc mới. Là một trong 23 di tích đặc biệt quan trọng đối với quốc gia, Côn Đảo luôn được sự quan tâm của nhà nước, các tổ chức xã hội trong việc gìn giữ chống xuống cấp di tích mang lại kết quả khả quan. Bên cạnh việc quản lý của Nhà nước, ý thức của nhân dân tham gia bảo vệ gìn giữ di tích đã có chuyển biến tích cực khá sâu rộng, từ đó diện mạo di tích phần nào được khởi sắc, kịp thời ngăn chặn sự xuống cấp. Nhằm bảo tồn tôn tạo phát huy di tích, ngày 28/12/2001 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 200/2001QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể bảo tồn tôn tạo và phát huy gía trị Khu di tích lịch sử Côn đảo, trong đó nhiệm vụ tập trung ưu tiên bảo tồn tôn tạo các công trình trọng điểm trước mắt như Nhà Công quán, Nhà chúa Đảo, Cầu tàu, Trại II, III, Chuồng cọp Pháp, Trại VI (khu B), Sở Chuồng bò, Trại VII, chuồng cọp Mỹ khu H, Khu điều tra xét hỏi… Ngày 05/09/2011, Thủ tướng chính phủ có Quyết định số 1518/QĐ-TTg duyệt bổ sung quy hoạch xác định lại khu vực khoanh vùng bảo vệ (khu vực I và II khoảng 110 ha). Thời gian qua, công tác sửa chữa bảo tồn di tích chưa được là bao, mới thực hiện trùng tu xong nhà Công quán, Chuồng cọp Pháp, Trại II (Phú hải), khu Chuồng bò, đặt hệ thống bia biển tại các đi tích, tu bổ bảo tồn tôn tạo nghĩa trang Hàng dương… Bên cạnh đó, có nhiều vấn đề phức tạp đặt ra chi phối việc bảo tồn tôn tạo di tích qua các đề án quy hoạch phát triển kinh tế xã hội Côn Đảo, không chỉ trùng lắp phủ nhận nhau, về diện tích đất sử dụng tới nay vẫn chưa có sự thống nhất còn chồng chéo. Thậm chí có dự án trùng lên khu vực đã khoanh vùng bảo vệ di tích. Từ lâu Nhà tù Côn đảo đã trở thành di tích lịch sử cách mạng nổi tiếng, có rừng vàng biển bạc môi trường khí hậu trong lành đang là khu vực trọng điểm mở ra các hoạt động văn hóa du lịch nhằm phát triển kinh ớ Bà Rịa Vũng Tàu nói chung và Côn Đảo nói riêng. Đối với tiềm năng khai thác giá trị lịch sử từ hệ thống di tích là rất khả thi, nếu được đầu tư đúng mức và đồng bộ chắc chắn Côn Đảo sẽ trở thành một trong những thế mạnh kinh tế – văn hoá, du lịch tại hòn đảo ngọc này. Trước ngưỡng cửa công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, xã hội đang phải xử lý nhiều mối quan hệ như lợi ích vật chất – luân lý đạo đức, truyền thống – với hội nhập, phát triển kinh tế – với bảo tồn di sản văn hóa, khi lợi ích vật chất luôn lấn át và thách thức trước sự tồn tại của di tích. Góp phần giải quyết tốt mối quan hệ kinh tế với văn hóa nhằm xây dựng đạo đức lối sống, phong tục tập quán, giáo dục truyền thống, bảo tồn di tích văn hóa ở Côn Đảo cần đặt ra một số giải pháp sau: – Phải làm cho mọi người ý thức và hiểu được “Tài sản văn hóa là gì ?” cũng như tầm quan trọng và vai trò của nó trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước. Nếu không làm thay đổi nhận thức, thì chủ trương chính sách dù phù hợp đến đâu cũng không trở thành hiện thực. Mặt khác, các giá trị văn hóa từ cội nguồn lịch sử góp phần mở đường cho sự hiểu biết về quá khứ những bí ẩn cuộc sống đấu tranh một còn một mất từ lao tù có một không hai này…, đó chính là một “Học đường đặc biệt” cho thế hệ trẻ, những chủ nhân của đất nước trong tương lai. – Công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước ngày càng phát triển, việc xây thêm các công trình kinh tế văn hóa phục vụ xã hội là điều cần thiết, song phải được cân nhắc xem xét tính hợp lý từ kiến trúc với môi trường sinh thái, cảnh quan, không nên vì lợi ích kinh tế cục bộ làm phá vỡ không gian di tích gần đó. Kết hợp việc bảo tồn tu bổ khai thác di tích với du lịch tạo thành mối liên kết để đầu tư trí tuệ, kinh phí, nhằm vừa khai thác kinh tế vừa bảo tồn phát huy di tích. – Diện tích khu vực bảo vệ I và II của di tích giữa Quy hoạch di tích và Quy hoạch xây dựng đều sấp xỉ 110 ha. Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt trong Quy hoạch xây dựng tại Quyết định số 1518/QĐ-TTg ngày 05/09/2011, không được thay đổi quy mô diện tích này. Trong khu vực di tích 110 ha đã bao gồm toàn bộ các di tích hiện hữu (kể cả khu nhà tù Mỹ, sở Muối …). Nếu thay đổi phải được Thủ tướng phê duyệt lại Quy hoạch xây dựng. – Ưu tiên bảo tồn những công trình trọng điểm có giá trị tiêu biểu, có bề dày lich sử để đầu tư trung tu sửa chữa, đặt ra các giải pháp đối vói công trình phụ trợ. Xác định cụ thể khu vực đất phục vụ cho di tích, đất phục vụ cho tôn tạo cảnh quan, phát triển kinh tế. Không để tình trạng việc sử dụng đất như thời gian qua. Các dự án quy hoạch phát triển kinh tế khác cũng như xây dựng công trình dân dụng, phải tuân theo bản đồ khoanh vùng bảo vệ di tích làm căn cứ. Tránh lặp lại trường hợp xây dựng làm phá vỡ cảnh quan di tích như khách sạn Saigon tourist, Ngân hàng Công thương, Kho bạc huyện Côn Đảo… – Có phương án tôn tạo xây dựng công trình phụ trợ như hệ thống giao thông, sân vườn cảnh quan, công viên tượng đài, bến bãi đậu xe, nhà vệ sinh, điện nước… Cần bảo vệ gữi lại dấu tích nguyên trạng các đường cũ như đường Lê Duẩn, Nguyễn Huệ, Nguyễn Văn Cừ, Tôn Đức Thắng, Trần Phú, Võ Thị Sáu… và những kiến trúc cổ (xây đựng trước năm 1975) như nhà công sở, công vụ, nhà giám thị cũ… phải được liệt kê vào danh mục bảo vệ và có phương án bảo tồn, cải tạo nội thất hợp lý để sử dụng. – Cần thiết phải phục hồi đoạn kè đá lịch sử. Đây là sự kiện lịch sử tiêu biểu về lao động khổ sai của tù nhân tại Cầu tầu, sau khi làm đường Tôn Đức Thắng đã bị san lấp mất hết dấu tích, có thể chỉ tái hiện khoảng 100m (mỗi bên cầu tàu 50m). Trước mắt chưa thực hiện, nhưng trong tương lai khi kết hợp với việc tu bổ cầu tàu, cần trả lại cảnh quan, các giá trị nguyên gốc (dáng vẻ) của di tích. Điều đó sẽ góp phần làm phong phú, đa dạng các loại hình di tích. Một trong những sản phẩm quan trọng và độc đáo của Côn Đảo không chỉ tuyên truyền giáo dục truyền thống, tham quan du lịch. – Nghĩa trang Hàng dương cần bảo vệ tôn tạo phát huy như công viên để nhân dân du khách thường xuyên tới tham quan hành hương. Đối với nghĩa trang Hàng keo nên tôn tạo thành công viên sân vườn, tuyệt đối không quy hoạch xây dựng công trình kiên cố để khai thác kinh tế, thay vì đây vẫn là nghĩa trang với hàng nghìn hài cố tử tù đang còn nằm đó. – Ngoài các công trình phụ trợ nên quy hoạch một khu sân chơi, trong đó chủ yếu không gian xanh, nhằm tái hịên lại các sự kiện lịch sử thông qua sân khấu hóa. Nên xây dựng kịch bản hình thành các trò chơi truyền thống dân gian, mời khách tham quan du lịch cùng tham dự như: chèo bè vượt biển, vác đá, vần đá, vác củi… trong lao động khổ sai. Trong năm cần đặt ra ngày truyền thống (ngày lễ hội Côn Đảo) để thu hút du khách. Sự kiện Võ Thị Sáu tại Côn đảo rất hùng, thiêng, cần quy hoạch vị trí để vận động nhân dân khuyên góp xây đền thờ bà Sáu. – Tăng cường quản lý nhà nước về bảo tồn, phát huy di sản văn hóa, phải tạo được hành lang pháp luật trong sử dụng, quản lý. Xem việc bảo tồn, giữ gìn di tích văn hóa là cuộc vận động của toàn dân, các ngành các cấp, các quan chức năng, các tổ chức xã hội cùng tham gia. Xác định phân cấp quản lý sử dụng, sở hữu di tích đối với cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và nhân dân nhằm xã hội hóa bảo tồn phát huy di tích. Bên cạnh đó cần thanh tra kiểm tra việc tranh chấp chiếm dụng, sở dụng trái phép đất đai. Các di tích đã có biên bản khoanh vùng bảo vệ phải được đo đạc xác định tọa độ, lập bản đồ giải thửa. Mặt khác kịp thời giải tỏa lập lại trật tự kỷ cương ở một số di tích đang bị xâm phạm. Côn Đảo, Bà Rịa – Vũng Tàu một vùng kinh tế năng động có tiềm năng phát triển kinh tế như hải cảng, du lịch, các hoạt động dịch vụ… trong đó du lịch tham quan di tích Nhà tủ Côn Đảo được xem là mũi nhọn trọng điểm. Bảo tồn phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa không chỉ là nguồn di dưỡng phong phú mở ra các hoạt động văn hóa du lịch, mà cò là một động lực mạnh mẽ, một điểm tựa vững chắc về tinh thần góp phần thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh tăng trưởng không ngừng./. PHẠM CHÍ THÂN _______________ Tài liệu tham khảo: – Lịch sử Nhà tù Côn Đảo tập I. BCH Đảng Bộ tỉnh BR-VT. Nhà Xb Sự Thật năm 1987 – Lịch sử Nhà tù Côn Đảo tập II. BCH Đảng Bộ tỉnh BR-VT. Nhà Xb Sự Thật năm 1991. – Lịch sử Nhà tù Côn Đảo tập III. BCH Đảng Bộ tỉnh BR-VTNhà Xb Chính trị QG năm 1996 – Hồ sơ di tích Nhà tù Côn Đảo. Bảo tàng tỉnh BR-VT năm 1998 – Dự án Quy hoạch tổng thể bảo tồn tôn tạo và phát huy gía trị Khu di tích lịch sử Côn đảo.Thù tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định sồ 200/2001/QĐ-TTg ngày 28/12/2001. – Dự án Quy hoạch di tích Côn Đảo bổ sung (xáx định đất khoanh vùng bảo vệ). Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt tại Quyết định số 1518/QĐ-TTg ngày 05/09/2011 |