Dân tộc mường ở đâu

Thế nhưng, những người con cháu trực tiếp tách ra khỏi tổ tiên của họ từ bao giờ để hình thành nên một tên Mường với tư cách là một dân tộc độc lập, thì cho đến thời điểm này, vẫn là một vấn đề chưa được giải quyết trọn vẹn, dẫu rằng, những công trình nghiên cứu, được tiếp cận từ lịch sử, dân tộc học lịch sử và ngôn ngữ học lịch sử đã cố công tìm hiểu, nhưng vẫn chưa tìm được thời điểm thỏa đáng.

Nhà sử học lão thành đã quá cố Nguyễn Lương Bích đã có một luận văn chi tiết về vấn đề này từ những năm 70 của thế kỷ trước. Ông cho rằng, tên gọi Mường xuất hiện sớm nhất cũng chỉ từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, để chỉ các khu vực hành chính của những địa phương miền núi, tương đương với một châu, một huyện, hay một xã lớn, không có danh từ “Mường” để chỉ người hoặc tộc người.

Dường như ông cũng không thừa nhận có một thời điểm tách ra của người Mường khỏi khối Việt – Mường. Ông khẳng định, trong lịch sử Việt Nam, người Mường và người Việt chỉ là một dân tộc. Đó là dân tộc Việt miền núi và dân tộc Việt đồng bằng. Từ Mường, hay “Sự tách biệt thành dân tộc Mường có thể chỉ là một quy định hành chính theo chính sách chia để trị của thực dân  Pháp, cách ngày nay chưa đầy một trăm năm [1].

Các thiếu nữ dân tộc Mường

Cũng có ý kiến cho rằng, người Mường tách ra thành dân tộc, có thể từ thế kỷ 10, căn cứ vào mấy tiếng Cử Long man, mà các thời Đinh – Tiền Lê – Lý đã dùng để chỉ người Cử Long. Cử Long sau này là Cổ Lũng [nay là huyện Cẩm Thủy, Thanh Hóa], quê hương của Hà Thọ Tường, người đã giúp sức vào việc trung hưng nhà Lê, được phong chức Tứ Đô, tước Thụy Quận Công. Ý kiến này lý giải rằng, thời Đinh, Tiền Lê, Lý gọi người Cử Long là Cử Long Man, có nghĩa coi người Cử Long là một dân tộc Man di, một dân tộc thiểu số, không phải dân tộc Việt.

Thực ra, đây không thể là câu để tìm thời điểm tách ra của người Mường khỏi khối Việt – Mường vì chỉ giản đơn rằng “Man”, “Mãnh” hay “Mang” đều là phiên âm của chữ Hán, thành Mường trong các thư tịch cổ Việt Nam. Như thế, người Thái, người Mường….đều có thể là “Man”. Đó là chưa kể có sự nhầm lẫn nào chăng giữa “âm” và “nghĩa”, giữa địa danh và tộc người.

Mặc dù vậy, thế kỉ 10, được coi như một loại ý kiến được đa số bàn luận và xem đó như một niên điểm tách ra giữa người Mường và người Việt Mường chung.

Giáo sư sử học tài danh đã quá cố Trần Quốc Vượng, dường như nghiêng theo quan điểm này. Bằng cách tiếp cận từ lịch sử, văn hóa và văn minh, luận văn “Việt Nam thế kỷ X – Văn hóa, văn minh thể X – Những vấn đề lịch sử” của ông đã cho rằng, thời điểm thích hợp nhất của sự tách ra của hai dân tộc là thế kỷ X – thế kỷ bản lề của dân tộc [2]

Tiếp cận từ ngôn ngữ học lịch sử, Giáo sư Hà Văn Tấn và sau này là Hà Văn Tấn, Phạm Đức Dương [3] đã đưa ra một lược đồ,  mà trong đó thể hiện các chặng mốc, nhưng không được xác định thời gian cụ thể, như sau:

*Những từ và cụm từ trong dấu ngoặc đơn là tác giả thêm vào lược đồ để độc giả dễ theo dõi

Năm 1991, dẫu không khẳng định trực tiếp, nhưng bằng cách gián tiếp và để bổ sung cho lược đồ của mình, Giáo sư Hà Văn Tấn đã viết: “Văn hóa Đông Sơn tồn tại ở miền Bắc Việt Nam từ giữa thiên niên kỷ I trước Công nguyên [2500 năm cách ngày nay TG]. Có thể phần lớn cư dân Đông Sơn còn nói ngôn ngữ Việt – Mường chung” [4]

Tôi hiểu cách diễn đạt này là, thế kỷ 2 sau Công nguyên, cư dân Đông Sơn – hay Việt – Mường còn nói ngôn ngữ chung là Việt – Mường, thì phải sau đó vài thế kỷ, khoảng thế kỷ 8 sau công nguyên, Việt và Mường mới được tách ra khỏi khối Việt Mường chung.

Lễ hội người Mường

Sự diễn giải trên đây của tôi, qua ý kiến của Giáo sư Hà Văn Tấn, đồng thời cũng là ý kiến của nhà ngôn ngữ học Nguyễn Văn Tài rằng, tiếng Việt và tiếng Mường tách nhau khoảng thế kỷ 7 hoặc 8 sau công nguyên [5].

Tôi cho rằng, các nhà nghiên cứu lịch sử luôn bị ám ảnh của quá trình đồng hóa 1000 năm thuộc Bắc, nên luôn coi thời Bắc thuộc là sự hoàn tất của quá trình Hán hóa. Những người Việt đã bị Hán hóa còn ở lại vùng đồng bằng để rồi sau khi giành được độc lập, với chiến thắng của Ngô Vương Quyền năm 938, và sự phục hưng của văn minh Đại Việt thời Lý – Trần, đã trở thành người Việt [Kinh], còn một bộ phận của người Việt cổ, bị dồn đẩy lên miền núi, trở thành người Mường. Chứng tích vật chất của khảo cổ học và thực tiễn sinh động của sức sống Việt, không ủng hộ cho quá trình Hán hóa của ngoại bang, theo đó, không thể lấy thế kỷ 10 như là một thời điểm chia tách của dân tộc Mường ra khỏi khối Việt - Mường chung. Còn về mặt ngôn ngữ, chính vì thiếu chứng cứ về các lớp từ vựng, luôn có hiện tượng chồng xếp ngôn ngữ, nên hai giáo sư Hà Văn Tấn và Phạm Đức Dương đã bỏ ngỏ niên điểm cụ thể của sự chia tách nêu trên, theo đó, cuối thời Bắc thuộc chỉ được coi như một gợi ý, mang tính giả thiết công tác.

Còn dưới góc nhìn vật thể lấy lên từ khảo cổ học, tôi thấy đến thời Lý, mộ táng Mường và Việt [Kinh] còn giống nhau đến mức kỳ lạ về cấu trúc và táng thức. Vương  triều Lý luôn lấy rừng làm nơi gửi gắm phần thân xác của Hoàng gia, theo đó, ngôi mộ Lê Lan Xuân, Thứ phi của Vua Lý Thần Tông cũng tìm thấy ở rừng Gò Lăng Cấm, Hương Nộn, Tam Nông, [Phú Thọ] như là nguyên mẫu, còn ngôi mộ tìm thấy ở Bãi Cời, xã Hùng Sơn, Lương Sơn [Hòa Bình] -  hiện nay là không gian của văn hóa Mường - như một bản sao, xét trên cấu trúc, táng thức và đặc biệt là đồ tùy táng, mang đậm chất cung đình, hoàng tộc.

Đến thời Trần, cái gọi là mộ táng Mường tìm thấy ở khu B Đồng Thếch, huyện Kim Bôi [Hòa Bình] giống hệt những mộ táng tìm thấy ở quanh Hà Nội hiện nay [[Phú Lương, [Thanh Trì], Phú Minh, [Từ Liêm]…]]. Đó là than trải lót, là quách gỗ hình cũi, là lon sành lát nền, là quan tài hình thuyền, là tục hỏa táng, là đồ tùy táng chôn theo…..v..v và v..v. Sự tương đồng về táng thức cho ta nhận ra, quan niệm về “cõi chết” về “ngôi nhà” cho người quá cố, không có sự khác  biệt giữa hai dân tộc Việt – Mường.

Khu mộ tang người Mường

Chỉ đến giữa thế kỷ 15, mộ táng Mường mới thấy sự khác biệt. Đó là sự khác biệt so với cấu trúc và táng thức của chính chúng, ở nửa đầu thế kỷ 15 trở về trước và so với mộ táng ở vùng xuôi đương thời. Tôi cho đây là bản lề, là thời điểm chia tách của người Mường khỏi khối Việt – Mường chung. Có lẽ cũng vì  thế mà Lê Lợi đã không hề bị mặc cảm là một “người thiểu số”, đã đứng lên phất cờ khởi nghĩa giải phóng dân tộc và trấn hưng đất nước. Có lẽ cũng vì thế, mà Triều Lê và Lê Trung Hưng giành quá nhiều đặc quyền với Tù trưởng Mường, chỉ đến khi Minh Mạng, với cải cách hành chính của mình, mới giảm được đặc quyền của Tù trưởng Mường. Đây là một chuyên đề cũng khá lý thú, xin được bàn đến ở bài viết sau.

Như vậy là, bằng tài liệu mộ táng, tôi đã cho thời điểm chia tách dân tộc Mường ra khỏi khối Việt – Mường chung là giữa thế kỷ 15. Đó là một quá trình diễn ra từ từ, bắt đầu từ thời Lý, Trần, để đến giữa thế kỷ 15, có đủ điều kiện để chia tách. Quan điểm cơ bản này, tôi đã từng bảo vệ thành công trước hội đồng luận án tiến sĩ cấp nhà nước, với nhiều giáo sư được lược nhắc trong bài viết này, là thành viên. Tuy nhiên, trên đây chỉ là ý khái quát, đã được rút gọn, mong sẽ có dịp trình bày kỹ lưỡng hơn.

Phạm Quốc

  • DTMN [TTXVN]
  • |
  • 00:00
  • |
  • 05-02-2020
  • |

  • Mol
  • Mon
  • Moan
  • Mual
  • Ao Tá
  • Âu Tá
  • Mọi Bi
  • ngôn ngữ Việt - Mường
  • ngữ hệ Nam Á

Tên tự gọi: Mol [hoặc Mon, Moan, Mual].
Nhóm địa phương: Ao Tá [Âu Tá], Mọi Bi.
Dân số: 1.452.095 người [Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/ 2019].

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường [ngữ hệ Nam Á].
Lịch sử: Cùng nguồn gốc với người Việt cư trú lâu đời ở vùng Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ...

Hoạt động sản xuất: Nông nghiệp ruộng nước chiếm vị trí hàng đầu, cây lúa là cây lương thực chính. Công cụ làm đất phổ biến là chiếc cày chìa vôi và chiếc bừa đơn, nhỏ có răng bằng gỗ hoặc tre. Lúa chín dùng hái gặt bó thành cum gùi về nhà phơi khô xếp để trên gác, khi cần dùng, lấy từng cum bỏ vào máng gỗ, dùng chân chà lấy hạt rồi đem giã. Trong canh tác ruộng nước, người Mường có nhiều kinh nghiệm làm thuỷ lợi nhỏ.

Bộ Y phục của phụ nữ Mường thanh lịch và kín đáo gồm: khăn trắng hình chữ nhật, áo ngắn váy dài đến mắt cá chân, yếm; đồ trang sức thường là dây đeo bằng bạc có gắn hộp trầu hình quả đào, móng vuốt hổi, gấu...

Ngoài ruộng nước, người Mường còn làm nương rẫy, chăn nuôi gia đình, săn bắn, đánh cá, hái lượm và sản xuất thủ công nghiệp [dệt vải, đan lát...].

Ăn: Họ thích ăn các món đồ như xôi đồ, cơm tẻ đồ, rau, cá đồ. Cơm, rau đồ chín được dỡ ra rá tãi đều cho khỏi nát trước khi ăn.

Rượu cần của người Mường nổi tiếng bởi cách chế biến và hương vị đậm đà của men được đem ra mời khách quý và uống trong các cuộc vui tập thể.

Phụ nữ cũng như nam giới thích hút thuốc lào bằng loại ống điếu to. Ðặc biệt, phụ nữ còn có phong tục nhiều người cùng chuyền nhau hút chung một điếu thuốc.

Mặc: Bộ y phục nữ đa dạng hơn nam giới và còn giữ được nét độc đáo. Khăn đội đầu là một mảnh vải trắng hình chữ nhật không thêu thùa, yếm, áo cánh [phổ biến là màu trắng] thân rất ngắn thường xẻ ở ngực và váy dài đến mắt cá chân gồm hai phần chính là thân váy và cạp váy. Cạp váy nổi tiếng bởi các hoa văn được dệt kỳ công. Trang sức gồm vòng tay, chuỗi hạt và bộ xà tích 2 hoặc 4 giây bạc có treo hộp quả đào và móng vuốt hổ, gấu bịt bạc.

Thầy mo khi hành lễ mặc y phục riêng. Ðó là chiếc áo dài 5 thân cài khuy bên nách phải, nhuộm màu xanh hoặc đen, thắt dây lưng trắng, đội mũ vải nhọn đầu. Thầy mỡi khi cúng chữa bệnh thường đội mũ chầu.

: Người Mường sống tập trung thành làng xóm ở chân núi, bên sườn đồi, nơi đất thoải gần sông suối... ở tỉnh Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ. Mỗi làng có khoảng vài chục nóc nhà, khuôn viên của mỗi gia đình thường nổi bật lên những hàng cau, cây mít. Ðại bộ phận ở nhà sàn, kiểu nhà bốn mái. Phần trên sàn người ở, dưới gầm đặt chuồng gia súc, gia cầm, để cối giã gạo, các công cụ sản xuất khác.

Tế quạt ma là một nghi lễ độc đáo trong đám ma người Mường. Khi tế quạt ma, những người là dâu trong nhà trong họ của người quá cố phải mặc bộ đồ quạt ma rất đẹp, gồm: váy đen, cạp mới, áo ngắn, áo chùng trắng, yếm đỏ, hai tay đeo vòng hạt cườm, tay phải cầm quạt cọ múa, tay trái cầm que gậy, đầu đội mũ quạt trong trí tua hạt cườm; phía trước đặt một chiếc ghế mây.

Làm nhà mới, khi dựng cột bếp, người Mường có tục làm lễ nhóm lửa. Gia chủ lấy bẹ chuối cắt hình 3 con cá to kẹp vào thanh nứa buộc lên cột bếp, ở cột cái của bếp còn đặt một quả bí xanh. Trước lúc đun nấu ở nhà mới, gia chủ làm lễ nhóm lửa xin thần bếp cho đặt 3 hòn đầu rau và hòn đá cái. Ðêm đó gia chủ mời mọi người uống rượu cần dưới ánh sáng của ngọn lửa không tắt.

Phương tiện vận chuyển: Phụ nữ phổ biến dùng loại gùi đan bằng giang hoặc tre, 4 góc nẹp thành thẳng đứng, có dây đeo qua trán hoặc qua vai để chuyên chở. Ðôi dậu, đòn gánh có mấu 2 đầu, đòn xóc cũng thường được sử dụng.

Nước sạch được chứa trong ống nứa to, dài hơn 1 mét vác vai từ bến nước về dựng bên vách để dùng dần.

Quan hệ xã hội: Quan hệ trong làng xóm với nhau chủ yếu là quan hệ láng giềng. Gia đình 2-3 thế hệ chiếm phổ biến. Con cái sinh ra lấy họ cha. Quyền con trai trưởng được coi trọng va con trai trong gia đình được thừa kế tài sản.

Cưới xin: Trai gái tự do yêu đương tìm hiểu, ưng ý nhau thì báo để gia đình chuẩn bị lễ cưới. Ðể dẫn đến đám cưới phải qua các bước: ướm hỏi [kháo thếng], lễ bỏ trầu [ti nòm bánh], lễ xin cưới [nòm khảu], lễ cưới lần thứ nhất [ti cháu], lễ đón dâu [ti du]. Trong ngày cưới, ông mối dẫn đầu đoàn nhà trai khoảng ba, bốn chục người gồm đủ nội, ngoại, bạn bè mang lễ vật sang nhà gái tổ chức cưới. Chú rể mặc quần áo đẹp chít khăn trắng, gùi một chón [gùi] cơm đồ chín [bằng khoảng 10 đấu gạo], trên miệng chón để 2 con gà sống thiến luộc chín. Trong lễ đón dâu, cô dâu đội nón, mặc váy áo đẹp ngoài cùng là chiếc áo dài màu đen thắt 2 vạt ở phía trước. Cô dâu mang về nhà chồng thường là 2 chăn, 2 cái đệm, 2 quả gối tựa để biếu bố mẹ chồng và hàng chục gối con để nhà trai biếu cô dì, chú bác.

Sinh đẻ: Khi người vợ sắp sinh con, người chồng phải chuẩn bị nhiều củi, làm một bếp riêng ở gian trong và quây phên nứa thành một buồng kín cho vợ đẻ. Khi vợ chuyển dạ đẻ, người chồng đi báo tin cho mẹ vợ và chị em họ hàng nội ngoại biết để đến nhà cùng nhau chờ đợi. Bà đỡ cắt rốn cho đứa trẻ bằng dao nứa lấy từ đầu chiếc dui trên mái nhà. Nếu là con trai thì dùng dao nứa mái nhà trước, nếu là con gái thì dùng dao nứa mái nhà sau. Cuống rốn của các con trong gia đình được đựng chung trong một ống nứa, họ tin rằng làm như thế lớn lên anh em sẽ thương yêu nhau.

Lịch người Mường gọi là sách đoi được sáng tạo dựa trên quan sát chuyển động của sao ÐOI. Lịch được làm bằng 12 thẻ tre, mỗi thẻ là một tháng trong đó có một số ngày trong tháng được khắc bằng những ký hiệu khác nhau để đoán định ngày tốt xấy cho khởi sự công việc.

Ngày sinh con, gia đình tổ chức ăn mừng, mời thầy mo cùng trừ mọi điều xấu hại đến mẹ con. Ðẻ được 3-7 ngày thường có nhiều anh em, bà con đến thăm hỏi tặng quà. Bà ngoại mừng cháu bao giờ cũng có vài vuông vải tự dệt, gia đình khá giả mừng thêm chiếc vòng bạc đeo cổ, anh em thân thích thì mừng gạo, mừng tiền.

Người đẻ thường ăn cơm nếp cẩm với lá tắc chiềng [loại lá thuốc chống được bệnh sài], uống nước nấu với các loại lá cây thuốc và trong thời gian cữ [7 đến 10 ngày] nhất là 3 ngày đầu luôn luôn phải sưởi bên bếp lửa. Trẻ sơ sinh nếu là trai thì được âu yếm gọi là lọ mạ [thóc giống], nếu là gái thì lại trìu mến gọi là cách tắc [rau cỏ]. Thường thì trẻ khoảng 1 tuổi mới được đặt tên gọi chính thức.

Ma chay: Người chết tắt thở, con trai trưởng cầm dao nín thở chặt 3 nhát vào khung cửa sổ gia thờ, sau đó gia đình nổi chiêng phát tang. Thi hài người chết được liệm nhiều lớp vải và quần áo theo phong tục rồi để vào trong quan tài làm bằng thân cây khoét rỗng, bên ngoài phủ áo vẩy rồng bằng vải.

Tang lễ do thầy mo chủ trì, dẫn dắt. Bên cạnh hình thức chịu tang của con trai, con gái như vẫn bình thường thấy ở người Việt, riêng con dâu, cháu dâu chịu tang cha mẹ, ông bà còn có bộ tang phục riêng gọi là bộ quạt ma.

Lịch: Lịch cổ truyền người Mường gọi là sách đoi làm bằng 12 thẻ tre tương ứng với 12 tháng. Trên mỗi thẻ có khắc ký hiệu khác nhau để biết tính toán, xem ngày, giờ tốt xấu cho khởi sự công việc.

Người Mường ở Mường Bi có cách tính lịch khác với người Mường ở các nơi khác gọi là cách tính ngày lùi, tháng tới. Tháng giêng lịch Mường Bi ứng với tháng 10 của lịch Mường các nơi khác và tháng 10 âm lịch.

Văn nghệ: Hát Xéc bùa [có nơi gọi Xắc bùa hay Khoá rác] được nhiều người ưa thích. Thường [có nơi gọi Ràng thường hoặc Xường] là loại dân ca ca ngợi lao động, và các nét đẹp phong tục dân tộc. Bọ mẹng là hình thức hát giao du tâm sự tình yêu. Ví đúm cũng là loại dân ca phổ biến.

Bên cạnh đó, người Mường còn có các thể loại hát khác như hát ru, hát đồng dao... Ðặc biệt, ở người Mường phải kể đến lễ ca. Ðó là những áng mo, bài khấn do thầy mo đọc và hát trong đám tang.

Ngoài sáo, nhị, trống, kèn... thì cồng chiêng là nhạc cụ đặc sắc.

Chơi: Trò chơi của người Mường gần gũi với mọi đối tượng. Có những trò chơi được tổ chức chu đáo, công phu như: thi bắn nỏ, đánh đu, ném còn... Các trò chơi của lứa tuổi thiếu niên nhi đồng được tổ chức linh hoạt ở mọi nơi, mọi lúc với những điều kiện chơi đàn giản, tiện lợi như trò đánh cá cắt, trò cò le, trò đánh chó hoặc buôn chó, trò đánh mảng, trò chăm chỉ, chằm chăn.

Video liên quan

Chủ Đề