Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Phân tích đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Khái niệm:

Theo văn kiện đại hội 12 của Đảng Cộng sản Việt Nam. Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Về phân tích đặc điểm:

Thứ nhất, về hệ thống mục tiêu của nền ktế t/trường định hướng XHCN:

Giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong và ngoài nước để thực hiện CNH – HĐH, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH;

Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân;

Tiêu dùng đc bảo vệ trên cơ sở pháp luật của nhà nước.

Thứ hai, về chế độ sở hữu và thành phần ktế:

Nền ktế thị trường định hướng XHCN ở VN có cấu trúc từ nhiều loại hình, hình thức sở hữu và nhiều thành phần ktế. Sở hữu tòan dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, trong đó: chế độ công hữu về tư liệu sx chủ yếu từng bước đc xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi CNXH đc xây dựng xong về cơ bản. Từ các hình thức sở hữu đó hình thành nên nhiều thành phần ktế với những hình thức tổ chức kd đa dạng, đan xen hỗn hợp. Các thành phần ktế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền ktế t/trường tịnh hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó ktế NN giữ vai trò chủ đạo, ktế NN cùng với ktế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền ktế quốc dân.

Thứ ba, về cơ chế vận hành ktế: là cơ chế thị trường có sự quản lý của NN để đảm bảo phân bổ hợp lý các lợi ích và nguồn lực, kích thích phát triển các tiềm năng kd và các lực lượng sx, tăng hiệu quả và tăng năng suất lđ; thực hiện việc qlý vĩ mô đ/v kinh tế t/trường trên cơ sở học tập vận dụng kinh nghiệm có chọn lọc cách qlý kinh tế của các các nước tư bản, điều chỉnh cơ chế ktế, giáo dục đạo đức kd phù hợp; thống nhất điều hành, điều tiết và hướng dẫn sự vận hành nền ktế cả nước theo đúng mục tiêu phát triển XH.

Thứ tư, về hình thức phân phối: có nhiều hình thức đan xen, vừa thực hiện theo ngtắc phân phối của KTTT và ngtắc phân phối của CNXH. Trong đó cần ưu tiên phân phối theo lđ, theo vốn,theo tài năng và hiệu quả, đồng thời đảm bảo sự phân phối công bằng và hạn chế bất bình đẳng XH.

Thứ năm, về nguyên tắc giải quyết các mặt, các mối quan hệ chủ yếu: Phải kết hợp ngay từ đầu giữa LLSX với QHSX, bảo đảm giải phóng LLSX, xây dựng LLSX mới kết hợp với củng cố và hòan thiện QHSX, nhằm phục vụ cho phát triển sx và công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước; giữa phát triển sx với từng bước cải thiện và nâng cao đời sống ND, giải quyết tốt các v/đề XH và công bằng XH, ngăn chặn các tệ nạn XH; giải quyết tốt các n/vụ c/trị, XH, văn hóa, môi trường.

Thứ sáu, về tính cộng đồng và tính dân tộc: Mang tính cộng đồng cao theo truyền thống của XHVN, phát triển có sự tham gia của cộng đồng và vì lợi ích của cộng đồng, hướng tới xây dựng 1 cộng đồng XH giàu có, đầy đủ về v/chất, phong phú về tinh thần, công bằng dân chủ văn minh, đảm bảo cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mọi người.

Thứ bảy, về qhệ quốc tế: KTTT định hướng XHCN dựa vào sự phát huy tối đa nguồn lực trong nước và triệt để tranh thủ nguồn lực ngoài nước theo phương châm “Kết hợp sức mạnh của dtộc và sức mạnh của thời đại” và sử dựng một cách hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất, để phát triển nền ktế đất nước với tốc độ nhanh, hiện đại và bền vững.

Khắc Niệm 

Nhà nước – Pháp luật

NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM


NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Đại hội XII đã có bước phát triển mới rất rõ nét, xác định đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau: "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"[1]

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phương thức để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện “ dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh”

* Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế

- Về sở hữu

         Sở hữu là quan hệ giữa người với người trong qúa trình sản xuất và tái sản xuất  xã hội trên cơ sở chiếm hữu nguồn lực của quá trình sản xuất và kết quả lao động tương ứng của quá trình sản xuất hay tái sản xuất ấy trong một điều kiện lịch sử nhất định. Sở hữu hàm ý trong đó bao gồm có chủ thể sở hữu, đối tượng sở hữu, lợi ích từ đối tượng sở hữu.

         Sở hữu bao hàm nội dung kinh tế và nội dung pháp lý

         + Về nội dung kinh tế, sở hữu là điều kiện của sản xuất, là lợi ích kinh tế mà chủ thể sở hữu được thụ hưởng khi sở hữu đối tượng sở hữu.

         + Về nội dung pháp lý, sở hữu thể hiện những quy định mang tính chất pháp luật về quyền hạn hay nghĩa vụ của chủ thể sở hữu.

         - Kinh tế  nhiều thành phần

Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế có nhiều hình thức ở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng, kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phât triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ

Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển theo pháp luật

Văn kiện Đại hội cũng đã nêu khái quát những nội dung quan trọng về các bộ phận cấu thành, vai trò của thị trường, vai trò của Nhà nước, vai trò của nhân dân và mục tiêu bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách, các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế- xã hội”.[2]

         * Về quan hệ quản lý

Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam có đặc trưng là do Nhà nước pháp quyền XHCN quản lý dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam sự làm chủ và giám sát của nhân dân với mục tiêu dùng kinh tế thị trường để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH vì " dân giàu, nước mạnh,dân chủ, công bằng văn minh"

         Nhà nước quản lý nền kinh tế thông qua pháp luật, các chiến lược, kế hoạch, cơ chế chính sách và các công cụ kinh tế trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc của thị trường, khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường và phù hợp với yêu cầu xây dựng CNXH ở Việt Nam.

* Về quan hệ phân phối

        Quan hệ phân phối bị chi phối và quyết định bởi quan hệ sở hữu về TLSX. Nền kinh tế thị trường với sự đa dạng các hình thức sở hữu do vậy thích ứng với nó sẽ có các loại hình phân phối  khác nhau: phân phối theo kết quả làm ra chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.

        * Về quan hệ gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội

Tiến bộ và công bằng xã hội vừa là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế, vừa là mục tiêu thể hiện bản chất tốt đẹp cảu chế độ xã hội chue nghĩa mà chúng ta phải hiện thực hóa từng bước trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH.

Những vấn đề nêu trên đã khái quát rõ nét những vấn đề cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở năm điểm: có sự quản lý  của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội; xác lập quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp để thúc đẩy phát triển mạnh lực lượng sản xuất; và nhất là: thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.

* Các thành phần kinh tế

- Đại hội XII tiếp tục khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế thì cũng xác định: “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. Kinh tế nhà nước gồm nguồn lực nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước, cũng như doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Trong Văn kiện Đại hội XII đã nêu: “Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng: doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư” Còn các nguồn lực nhà nước (tài nguyên, đất đai, ngân sách nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia,...), cùng với các công cụ, chính sách được Nhà nước sử dụng để định hướng, điều tiết nền kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Thực tiễn ở nước ta, khi các nguồn lực của Nhà nước cùng với các cơ chế, chính sách tập trung vào lĩnh vực, địa bàn nào thì dẫn dắt, thúc đẩy sự phát triển ở lĩnh vực, địa bàn đó. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận của kinh tế nhà nước, hoạt động theo cơ chế thị trường, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác và được cơ cấu lại như đã nêu ở trên.

Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Khuyến khích đẩy mạnh quá trình khởi nghiệp kinh doanh. Có chính sách thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp Việt Nam cả về số lượng và chất lượng, thật sự trở thành lực lượng lòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh các lĩnh vực mà pháp luật không cấm; xây dựng, thực thi đồng bộ, hiệu quả cơ chế hậu kiểm, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh, tăng cường tính minh bạch đối với độc quyền nhà nước và độc quyền doanh nghiệp, kiểm soát độc quyền kinh doanh. Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu và quyền tài sản. Hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp theo cơ chế thị trường.

- Đối với các thành phần kinh tế khác: tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã; đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước có cơ chế, chính sách hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường, tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở phát triển và phát huy vai  trò của kinh tế hộ.Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần.

Tạo mọi điều kiện thuận lợi phát triển mạnh doanh nghiệp tư nhân để tạo động lực nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khỏi nghiệp. Khuyến khích hình thành tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước.

Mục tiêu Đại Hội XII

Đại hội XII xác định mục tiêu đến năm 2020 là: "phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo được thể hiện trong xây dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội"

Để đạt được mục tiêu đó, Đại hội yêu cầu phải: "Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển, vận hành thông suốt, hiệu quả, đồng bộ và khả thi các loại thị trường và bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, phân bổ nguồn lực cho sản xuất kinh doanh và quản lý giá phải theo cơ chế thị trường. Đồng thời, Nhà nước sử dụng thể chế, nguồn lực, công cụ điều tiết, cơ chế, chính sách phân phối, phân phối lại để phát triển văn hóa, thực hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo, từng bước nâng cao phúc lợi xã hội và đời sống  vật chất, tinh thần của nhân dân’’

Đại hội XII đề ra phương hướng tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp như sau 

Thể chế hóa quyền tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ sử dụng tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm công khai, minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch thông suốt. Bảo đảm quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Nâng cao năng lực của các thiết chế và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế trong bảo vệ quyền tài sản.

[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.102.

[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđđ, tr.102-103

[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.273-274.