Cuộc cách mạng khoa học kỷ thuật có điểm tưởng động với cuộc cách mạng công nghiệp trước đây về

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra vào cuối thế kỷ XVIII, đẩu thế kỷ XIX, gắn liền với các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lẩn thứ nhất, mở đầu từ ngành dệt ở Anh, sau đó lan tỏa sang nhiều ngành sản xuất khác và tới nhiều nước khác, trước hết là Mỹ, các nước châu Âu và Nhật Bản. Mở đầu cuộc cách mạng này, nền sản xuất hàng hóa trong ngành dệt ban đầu dựa trên công nghệ thủ công giản đơn, quy mô nhỏ, lao động chân tay chuyển sang sử dụng các phương tiện cơ khí và máy móc trên quy mô lớn nhờ áp dụng các sáng chế kỹ thuật trong sản xuất công nghiệp.
Trong số những thành tựu kỹ thuật có ý nghĩa then chốt trong giai đoạn này trước hết phải kể đến sáng chế “thoi bay” của Giôn Kây vào năm 1733 có tác dụng tăng năng suất lao động lên gấp đôi. Năm 1764, Giôn Ha-gơ-rếp sáng chế xe kéo sợi, làm tăng năng suất gấp 8 lần. Năm 1769, Ri-sác Ác-rai cải tiến công nghệ kéo sợi bằng súc vật, sau đó là bằng sức nước Năm 1785, Ét-mun Các-rai sáng chế máy dệt vải, tăng năng suất dệt lên tới 40 lần. Năm 1784, Giêm Oát sáng chế máy hơi nước, tạo động lực cho sự phát triển máy dệt, mở đầu quá trình cơ giới hóa ngành công nghiệp dệt.
Năm 1784, Hen-ry Cót tìm ra phương pháp luyện sắt từ quặng. Năm 1885, Hen-ry Bét-xen-mơ sáng chế lò cao có khả năng luyện gang lỏng thành thép đáp ứng được về yêu cầu rất lớn khối lượng và chất lượng thép đế chế tạo máy móc thời kỳ đó. Năm 1814, chiếc đầu máy xe lửa đầu tiên chạy bằng hơi nước ra đời, khai sinh hệ thống đường sắt ở châu Âu và châu Mỹ. Năm 1807,
Rô-bớt Phu-tông chể tạo thành công tàu thủy chạy bằng hơi nước.
Sau những bước khởi đầu ở nước Anh, cách mạng công nghiệp đã nhanh chóng lan rộng ra phạm vi thế giới và trở thành hiện tượng phổ biến đồng thời mang tính tất yếu đối với tất cả các quốc gia tư bản.

Mục lục

Điều kiện ra đờiSửa đổi

Nguyên nhânSửa đổi

Sau thời kỳ Thập tự chinh, những chiến binh trở về mang theo những vật phẩm quý giá và mới lạ với xã hội châu Âu thời bấy giờ như nước hoa, các loại gia vị mới, các sản phẩm bằng thép,... Việc này thúc đẩy việc trao đổi mua bán của các thương nhân châu Âu.[4] Vào thế kỷ 15, kinh tế hàng hóa ở Tây Âu đã khá phát triển, nhu cầu về thị trường tăng cao. Giai cấp tư sản Tây Âu muốn mở rộng thị trường sang phương Đông, mơ ước tới những nguồn vàng bạc từ phương Đông.

Tại Tây Âu, tầng lớp quý tộc cũng tăng lên, do đó nhu cầu về các mặt hàng đặc sản, cao cấp có nguồn gốc từ phương Đông như tiêu, quế, trầm hương, lụa tơ tằm [dâu tằm tơ], ngà voi,... đã tăng vọt.

Trong khi đó, Con đường tơ lụa mà người phương Tây đã biết từ thời cổ đại lúc đó lại đang bị Đế quốc Ottoman theo đạo Hồi chiếm giữ khiến cho hoạt động giao thương của phương Tây không thể qua đây được, vì vậy chỉ có cách tìm một con đường đi mới trên biển.

Lúc đó người Tây Âu đã có nhiều người tin vào giả thuyết Trái Đất hình cầu. Họ cũng đã đóng được những con tàu buồm đáy nhọn, thành cao, có khả năng vượt đại dương, mỗi tàu lại đều có la bàn và thước phương vị, điều đó đã tăng thêm sự quyết tâm cho những thủy thủ dũng cảm.[4]

Những phong trào tri thức tại Châu ÂuSửa đổi

Những phong trào tri thức tại Châu Âu đã tạo ra nền tảng kiến thức cho các cuộc cách mạng công nghiệp ở châu lục này.

Những cuộc phát kiến địa lý lớn thế kỉ 15–16Sửa đổi

Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là hai nước đi đầu trong phong trào phát kiến địa lý. Năm 1415 một trường hàng hải do Hoàng tử Henrique sáng lập và bảo trợ. Từ đó, hàng năm người Bồ Đào Nha tổ chức những cuộc thám hiểm men theo bờ biển phía tây châu Phi.[5]

Năm 1486, đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha do Bartolomeu Dias chỉ huy đã tới được cực nam châu Phi, họ đặt tên mũi đất này là mũi Hảo Vọng.[5][6]

Năm 1497, Vasco da Gama đã dẫn đầu đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha tới được Ấn Độ. Ông được phong làm Phó vương Ấn Độ[7]

Người Tây Ban Nha lại đi tìm Ấn Độ theo hướng Mặt Trời lặn. Năm 1492, một đoàn thám hiểm do Cristoforo Colombo chỉ huy đã tới được quần đảo miền trung châu Mĩ, nhưng ông lại tưởng là đã tới được Ấn Độ.[4] Ông gọi những người thổ dân ở đây là Indians. Sau này, một nhà hàng hải người Ý là Amerigo Vespucci mới phát hiện ra Ấn Độ của Colombo không phải là Ấn Độ mà là một vùng đất hoàn toàn mới đối với người châu Âu. Amerigo đã viết một cuốn sách để chứng minh điều đó. Vùng đất mới đó sau này mang tên America.[4]

Năm 1519–1522, Ferdinand Magellan đã dẫn đầu đoàn thám hiểm Tây Ban Nha lần đầu tiên đi vòng quanh thế giới. Một hạm đội gồm 5 tàu với 265 người đã vượt Đại Tây Dương tới bờ biển phía đông của Nam Mỹ. Họ đã đi theo một eo biển hẹp gần cực nam châu Mỹ và sang được một đại dương mênh mông ở phía bên kia. Suốt quá trình vượt đại dương mênh mông đó, đoàn tàu buồm của Magellan hầu như không gặp một cơn bão đáng kể nào. Ông đặt tên cho đại dương mới đó là Thái Bình Dương. Magellan đã thiệt mạng ở Philippines do trúng tên độc của thổ dân. Đoàn thám hiểm của ông cũng chỉ có 18 người sống sót trở về được tới quê hương. 247 người thiệt mạng trên tất cả các vùng biển và các hòn đảo trên thế giới vì những nguyên nhân khác nhau. Những thành công lớn nhất mà chuyến đi đạt được là lần đầu tiên con người đã đi vòng quanh thế giới.

Tác dụng của những cuộc phát kiến địa lýSửa đổi

Các nhà thám hiểm bằng những chuyến đi thực tế đầy dũng cảm của mình đã chứng minh cho giả thuyết Trái Đất hình cầu. Họ còn cung cấp cho các nhà khoa học rất nhiều hiểu biết mới về địa lý, thiên văn, hàng hải, sinh vật học,...

Sau những cuộc phát kiến này, một sự tiếp xúc giữa các nền văn hóa trên thế giới diễn ra do các cá nhân có nguồn gốc văn hóa khác nhau như các giáo sĩ, nhà buôn, những người khai phá vùng đất mới, những quân nhân...[8]

Một làn sóng di cư lớn trên thế giới trong thế kỉ 16–18 với những dòng người châu Âu di chuyển sang châu Mĩ, châu Úc.[8] Nhiều nô lệ da đen cũng bị cưỡng bức rời khỏi quê hương xứ sở sang châu Mĩ.[9][10]

Hoạt động buôn bán trên thế giới trở nên sôi nổi, nhiều công ty buôn bán tầm cỡ quốc tế được thành lập.

Những cuộc phát kiến địa lý này cũng gây ra không ít hậu quả tiêu cực như nạn cướp bóc thuộc địa, buôn bán nô lệ da đen và sau này là chế độ thực dân.[11]

Thắng lợi của phong trào cách mạng tư sản [thế kỷ 16–18]Sửa đổi

Sự phát triển của thị trường trên quy mô toàn thế giới đã tác động tới sự phát triển của nhiều quốc gia, trước hết là các nước bên bờ Đại Tây Dương, sự thay đổi về mặt chế độ xã hội sẽ diễn ra là điều tất yếu. Giai cấp tư sản ngày càng lớn mạnh về mặt kinh tế nhưng họ chưa có địa vị chính trị tương xứng, chế độ chính trị đương thời ngày càng cản trở cách làm ăn của họ. Thế kỉ 16-18 đã diễn ra nhiều cuộc cách mạng tư sản ở Tây Âu và Bắc Mỹ.

Bước chuyển đó đã được thực hiện qua hàng loạt những cuộc cách mạng tư sản như: Cách mạng tư sản Hà Lan [1566-1572], Cách mạng tư sản Anh [1640-1689], Chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mỹ [1775–1783], Cách mạng tư sản Pháp [1789–1799],...

Các cuộc biến động xã hội đó tuy cách xa nhau về không gian, thời gian cũng cách xa nhau hàng thế kỉ nhưng đều có những nét giống nhau là nhằm lật đổ chế độ lạc hậu đương thời, tạo điều kiện cho kinh tế tư bản phát triển. Với sự thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản và sự ra đời của các quốc gia tư bản, công nghiệp thương nghiệp đã có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Lịch sử nhân loại đang bước sang một giai đoạn văn minh mới.

"Tập trung sức thực hiện cách mạng kỹ thuật là then chốt"

Nghị quyết số 157 của Ban Bí thư khóa III chỉ rõ: tiếp tục cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng văn hóa tư tưởng và đẩy mạnh cách mạng kỹ thuật. Ba cuộc cách mạng ấy quan hệ chặt chẽ với nhau, phải được đồng thời tiến hành, không thể xem nhẹ mặt nào, song phải tập trung sức thực hiện cách mạng kỹ thuật là then chốt.

Nghị quyết nên rõ phương hướng và nhiệm vụ của công tác khoa học và kỹ thuật hiện nay là:

1. Đảng ta đã nhiều lần nêu rõ: phát triển khoa học và kỹ thuật là điều kiện không thể thiếu được để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta; sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội càng phát triển thì vai trò của khoa học và kỹ thuật càng quan trọng.

Nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ III cũng như nghị quyết của nhiều Hội nghị Trung ương trước đây đã chỉ rõ: Sau khi cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã giành được thắng lợi quyết định, chúng ta chuyển sang lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Muốn thế, phải tiếp tục tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên ba mặt: tiếp tục cách mạng về quan hệ sản xuất, đẩy mạnh cách mạng văn hoá và tư tưởng, và đẩy mạnh cách mạng kỹ thuật. Ba cuộc cách mạng ấy liên quan chặt chẽ với nhau, phải được đồng thời tiến hành, không thể xem nhẹ một mặt nào, song phải tập trung sức thực hiện cách mạng kỹ thuật là then chốt.

Để thực hiện cách mạng kỹ thuật là then chốt, phải ra sức phát triển khoa học và kỹ thuật. Phát triển khoa học và kỹ thuật cũng là một trong những nội dung của cách mạng văn hoá, và có liên quan mật thiết đến việc tăng cường và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới.

2. Hiện nay, để giành thắng lợi trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, nền kinh tế miền Bắc nước ta phải bảo đảm những nhu cầu của chiến đấu, của đời sống nhân dân, và không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và quốc phòng. Muốn thế phải tăng năng suất lao động, phải tăng gia sản xuất lương thực và thực phẩm trên cơ sở thâm canh, phải duy trì và phát triển giao thông vận tải, phải phát triển công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp. Để giải quyết các vấn đề ấy, một trong những biện pháp quan trọng là đẩy mạnh cách mạng kỹ thuật trong thời chiến.

Vì vậy, cần động viên lực lượng hiện có về khoa học và kỹ thuật của chúng ta để phục vụ cuộc cách mạng kỹ thuật trong thời chiến.

Mặt khác, cần thấy rằng: sau khi chúng ta đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, chúng ta sẽ đẩy mạnh cuộc cách mạng kỹ thuật với quy mô ngày càng lớn và trình độ ngày càng cao, nhằm xây dựng cả nước ta nhanh, mạnh và vững chắc thành một nước hoàn toàn độc lập và thống nhất, có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến.

Chúng ta cần tiến hành cuộc cách mạng kỹ thuật ấy theo những con đường tốt nhất và độc đáo, phù hợp với điều kiện của nước ta, với yêu cầu của nhân dân ta và với những kiến thức khoa học, hiện đại nhất. Khả năng trước mắt về khoa học và kỹ thuật của ta còn xa mới đáp ứng được yêu cầu của cuộc cách mạng kỹ thuật ấy. Ngay từ bây giờ, chúng ta phải vươn lên một cách tích cực và mạnh mẽ hơn nữa để chuẩn bị cuộc cách mạng ấy một cách thiết thực.

Vì vậy, khoa học và kỹ thuật của ta đang đứng trước hai nhiệm vụ lớn:

1- Phục vụ đắc lực cuộc cách mạng kỹ thuật trong thời chiến.

2- Tích cực chuẩn bị để phục vụ đắc lực cuộc cách mạng kỹ thuật trên quy mô lớn, với trình độ cao và trong phạm vi cả nước sau khi cuộc chiến tranh chống Mỹ kết thúc thắng lợi.

3. Về nội dung của hai nhiệm vụ trên đây:

a] Để phục vụ cuộc cách mạng kỹ thuật trong thời chiến, hoạt động khoa học và kỹ thuật cần hướng vào các vấn đề sau đây:

Phải chọn một số vấn đề thuộc loại những vấn đề có ý nghĩa quan trọng và thiết thực nhất, đồng thời là những vấn đề mà chúng ta có khả năng giải quyết được trong một thời gian ngắn với lực lượng và điều kiện thích hợp với ta, để tập trung lực lượng giải quyết dứt khoát và kịp thời. Phải giải quyết một số vấn đề khoa học và kỹ thuật đề ra trong việc trang bị công cụ thường, công cụ cải tiến, nửa cơ khí và cơ khí nhỏ cho lao động trong nông nghiệp, giao thông vận tải, thuỷ lợi,... [xác định sớm các loại công cụ và máy phát động lực, tăng cường công tác thiết kế, nghiên cứu nguyên vật liệu, giải quyết các vấn đề về quy trình công nghệ và sử dụng, bảo dưỡng, sửa chữa v.v.]. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm rộng rãi của quần chúng và những kết quả nghiên cứu và thí nghiệm của các cơ quan nhà nước, phải tiếp tục xác định và xác định sớm chế độ sản xuất và nội dung các biện pháp và quy trình kỹ thuật thâm canh cho các cây lương thực, cây thực phẩm và cây công nghiệp chính [lúa, khoai lang, ngô, sắn, đỗ tương, lạc, đay, dâu tằm] trên các vùng khác nhau trong điều kiện chiến tranh, tập trung lực lượng, giải quyết các vấn đề như nước, phân, giống, công cụ cải tiến trong nông nghiệp, v.v.; giải quyết một số vấn đề khoa học và kỹ thuật nhằm tăng nhanh sản lượng đàn gia súc, gia cầm và phát triển nghề nuôi cá [vấn đề thức ăn, giống, phòng và chữa bệnh...]. Tiếp tục nghiên cứu vấn đề trồng cây, gây rừng, bảo vệ rừng, chống xói mòn, chống đất bạc màu. Tập trung sức giải quyết tốt một số vấn đề khoa học và kỹ thuật để phục vụ phát triển công nghiệp địa phương, phục vụ chiến đấu, giao thông vận tải và đời sống.

Để phục vụ đắc lực sản xuất và chiến đấu trước mắt, công tác khoa học và kỹ thuật của ta phải được tiến hành với tinh thần tiến công cách mạng, tinh thần tự lực cánh sinh, dám nghĩ, dám làm cao độ, quyết thắng mọi khó khăn trở ngại, không đòi hỏi phương tiện đầy đủ, mạnh dạn dùng phương tiện và nguyên vật liệu có được, dùng mọi phương pháp để đạt mục đích, không để công thức sách vở trói tay. Phải có tinh thần dốc hết khả năng về hiểu biết, và tập trung phương tiện để phục vụ và phục vụ kịp thời. Phải có tinh thần bám sát yêu cầu, bám sát thực tế sản xuất và chiến đấu, cần gì làm nấy; trong yêu cầu phân biệt chính với phụ; trước mắt với lâu dài; coi hiện trường sản xuất và chiến đấu là những phòng thí nghiệm tốt, kết hợp chặt chẽ phòng thí nghiệm của các viện và các trường học với hiện trường sản xuất và chiến đấu, nghiên cứu và giải quyết vấn đề tại hiện trường, phương pháp giải quyết phải phù hợp với khả năng tại chỗ.

Một vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng là: bằng mọi cách, đẩy mạnh phong trào quần chúng tiến quân vào khoa học và kỹ thuật.

b] Nội dung của việc chuẩn bị cho cuộc cách mạng kỹ thuật quy mô lớn sau này bao gồm các vấn đề sau đây:

- Vạch ra đường lối, phương hướng, quy hoạch cho cách mạng kỹ thuật và phát triển khoa học và kỹ thuật.

- Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và kỹ thuật.

- Tiến hành điều tra cơ bản về điều kiện thiên nhiên và tài nguyên của nước ta.

- Tìm hiểu những thành tựu khoa học và kỹ thuật của thế giới, nắm cho được những hiểu biết khoa học và kỹ thuật hiện đại nhất có liên quan đến công cuộc xây dựng của nước ta.

- Xây dựng hệ thống các cơ sở nghiên cứu và thí nghiệm khoa học và kỹ thuật.

- Tiến hành nghiên cứu dần những vấn đề khoa học và kỹ thuật lớn mà chúng ta sẽ phải giải quyết.

4. Để thực hiện các công việc trên đây, cần phân công như sau:

a] Các công việc thuộc về phục vụ cuộc cách mạng kỹ thuật trong thời chiến: các bộ, tổng cục và các địa phương là các cơ quan và đơn vị chịu trách nhiệm chính; Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước có trách nhiệm điều hoà và phối hợp.

b] Các công việc thuộc về chuẩn bị phục vụ sau này:

- Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và kỹ thuật: Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước, Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp và Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước vạch phương hướng và quy hoạch đào tạo cán bộ; Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp vạch kế hoạch [các việc trên đều cần lấy ý kiến các ngành, các địa phương]. Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp là cơ quan chính có nhiệm vụ cùng các ngành, các địa phương thực hiện quy hoạch và kế hoạch ấy. Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước tham gia một phần.

Tiến hành điều tra cơ bản: Tổng cục địa chất, các bộ, tổng cục và các địa phương thực hiện công tác điều tra. Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước và Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước vạch phương hướng, làm quy hoạch chung, Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước tổ chức thực hiện một phần, và điều hoà, phối hợp giữa các bộ và các địa phương.

Xây dựng hệ thống các cơ sở nghiên cứu và thí nghiệm, và tiến hành nghiên cứu một số vấn đề lớn: mỗi bộ, tổng cục thực hiện xây dựng trong phạm vi của mình; Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước vạch quy hoạch và kế hoạch chung, đồng thời thực hiện xây dựng một phần trong phạm vi của mình, và điều hoà, phối hợp giữa các bộ, tổng cục.

Tìm hiểu những thành tựu khoa học và kỹ thuật của thế giới: Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước chịu trách nhiệm chính.

Trích: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 29, tr. 189-192.

Cách mạng khoa học – công nghệ và tác động của nó đến con người và xã hội Việt Nam*

10/04/2020

PGS.TSKH. LƯƠNG ĐÌNH HẢI,

Viện Nghiên cứu Con người, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Cách mạng khoa học - công nghệ [CMKHCN] hiện nay là một trong những đặc điểm căn bản của thế giới từ những năm 1950 đến nay. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 [cách mạng công nghiệp lần thứ tư], được đề cập với tần suất khá cao trong hơn một năm gần đây[1], về thực chất, là sản phẩm của cuộc CMKHCN, diễn ra từ giữa thế kỉ XX cho đến nay. CMKHCN đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, sâu rộng trên toàn thế giới, thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau. Nền tảng khoa học của cuộc cách mạng này trước hết là những phát minh vĩ đại trong lĩnh vực vật lí và hóa học cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, tạo ra cơ học lượng tử và các khoa học hiện đại sau này. CMKHCN hiện đại là sự hòa nhập, kết hợp thành một quá trình duy nhất các quá trình cách mạng trong khoa học, trong kĩ thuật, trong công nghệ và tác động mạnh mẽ đến công nghiệp, trong đó quá trình cách mạng trong khoa học đi trước, giữ vai trò dẫn đường và quyết định các quá trình kĩ thuật, công nghệ, công nghiệp và do đó cũng có vai trò dẫn đường và quyết định định hướng, quy mô, tốc độ phát triển sản xuất. Nghiên cứu khoa học được công nghiệp hóa, tri thức khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, sản xuất trở thành nơi thực hiện thực tiễn các tri thức khoa học. Tri thức khoa học trở thành cơ sở lí luận cho sản xuất, quản lí và phát triển xã hội ở các cấp độ vi mô lẫn vĩ mô và cả ở quy mô toàn cầu. Chính nhờ đó tốc độ phát triển của công nghiệp, của sản xuất và xã hội ngày càng phát triển với quy mô và nhịp độ nhanh hơn.

Trong CMKHCN hiện nay, các phát minh kĩ thuật, công nghệ và cả các ngành công nghiệp hiện đại đã được sinh ra từ các phòng nghiên cứu, thí nghiệm[2]. Việc rút ngắn khoảng cách về mặt thời gian giữa khoa học, kĩ thuật, công nghệ và việc thực hiện thực tiễn chúng trong sản xuất là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của cuộc CMKHCN hiện nay, và là một trong các tính quy luật của tiến bộ khoa học, kĩ thuật và công nghệ trong thời đại ngày nay[3]. CMKHCN tạo ra sự tích hợp không chỉ trong khoa học mà còn trong cả kĩ thuật, công nghệ và sản xuất. Nếu trước đây khoa học đứng bên ngoài, bên cạnh kĩ thuật và công nghệ, đứng cách xa sản xuất thì ngày nay chúng hòa lẫn, thâm nhập vào nhau trở thành một khối thống nhất. Nhiều công nghệ sản xuất mới gắn liền các phát minh trong các khoa học cơ bản, các phát kiến công nghệ trong các phòng nghiên cứu, thí nghiệm.

Cách mạng khoa học - công nghệ làm xuất hiện những ngành khoa học mới, tạo ra cách mạng công nghiệp 3.0 và 4.0 với nhiều ngành công nghiệp mới và làm chúng phát triển nhanh chóng, có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền công nghiệp và đời sống xã hội. Nó cũng làm biến mất nhiều ngành công nghiệp đã được tạo ra trước đây, đã từng thống trị, chi phối nền sản xuất. Cùng với việc sử dụng các công nghệ tổ hợp đa thành phần trong cùng một chu trình sản xuất thay cho phương thức công nghệ một thành phần, nó đang tạo ra bước ngoặt trong sự phát triển các lực lượng sản xuất, tạo ra hai cuộc cách mạng công nghiệp, và do vậy, nó đang cải biến toàn bộ nền sản xuất xã hội nói chung.

Cách mạng khoa học - công nghệ diễn ra với quy mô ngày càng lớn hơn, sâu rộng hơn, tốc độ nhanh hơn, dường như đồng thời trên quy mô toàn cầu, đến mức không thể kịp nhận đoán “hình dạng” của ngày mai. Nó thể hiện đồng thời, đồng loạt, cộng hưởng, đột biến, bất ngờ, ảnh hưởng dữ dội, quy mô lớn và sâu rộng so với các giai đoạn lịch sử trước đây trong sự phát triển của khoa học, kĩ thuật và công nghệ.

Thông tin và tri thức khoa học trở thành yếu tố đặc biệt quan trọng của sản xuất và đời sống xã hội, ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của các lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, trở thành động lực của sự phát triển của cả sản xuất, con người và xã hội. Cách mạng khoa học - công nghệ đã tạo ra môi trường xã hội đặc biệt. Đó là môi trường thông tin, trong đó lao động thể lực được thay thế bằng lao động trí tuệ với những phẩm chất và năng lực tinh thần, đòi hỏi tính chất sáng tạo, độc đáo, cá nhân hóa. Thông tin, tri thức khoa học trở thành điều kiện, môi trường, nhân tố cấu thành và nội dung thiết yếu của quá trình sản xuất, là nguồn tạo ra của cải vô tận, là nguồn lực đặc biệt của sự phát triển con người và xã hội.

Cách mạng mạng khoa học - công nghệ tạo tiền đề cho nền sản xuất xã hội ở giai đoạn cách mạng công nghiệp 3.0 vượt qua trình độ sản xuất đại trà, đặc trưng của nền sản xuất cũ trước đây, theo nghĩa là sản xuất đại trà không còn có thể thống trị, phổ quát. Nền sản xuất giai đoạn cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ hướng theo các nhu cầu cá nhân - cá thể, đơn nhất, đặc thù. Nó đang làm chuyển dịch dần nền sản xuất xã hội ở quy mô toàn cầu vận hành theo những nguyên tắc mới: phi tiêu chuẩn hóa, phi chuyên môn hóa, phi đồng thời hóa, phi tập trung hóa, phi tối đa hóa và phi trung tâm hóa [A. Toffler, 1992: Burlaxki F.M., 2009].

Xuất hiện từ giữa thế kỉ XX, cho đến nay cuộc CMKHCN trải qua hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất kéo dài từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất cho đến những năm 1970. Giai đoạn này vẫn thường được gọi là cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật, giai đoạn từ những năm 1980 đến nay được gọi là cách mạng khoa học và công nghệ. Hiện nay ở một số nước, ở một số học giả[4], thuật ngữ cách mạng khoa học - kĩ thuật vẫn được dùng để hàm chứa cả giai đoạn hai của cuộc CMKHCN đã phân tích ở trên. Vì thế, họ không sử dụng thuật ngữ cách mạng khoa học và công nghệ hay cách mạng khoa học - công nghệ, mà sử dụng thuật ngữ cách mạng khoa học - kĩ thuật để chỉ những diễn biến cách mạng trong các lĩnh vực khoa học, kĩ thuật và công nghệ từ giữa thế kỉ XX đến nay. Ở nước ta, thuật ngữ cách mạng khoa học và kĩ thuật được sử dụng từ năm 1960 đến năm 1976, từ năm 1976 đến năm 1991 thì sử dụng khái niệm cách mạng khoa học - kĩ thuật, từ năm 1991 đến nay sử dụng khái niệm cách mạng khoa học và công nghệ. Chúng tôi cho rằng nên thống nhất sử dụng khái niệm cách mạng khoa học - công nghệ bởi nó tạo ra cả hai cuộc cách mạng công nghiệp 3.0 và cách mạng công nghiệp 4.0, khi nó bao hàm các quá trình cách mạng trong cả khoa học, kĩ thuật, công nghệ và công nghiệp không tách rời nhau.

Cách mạng khoa học - công nghệ là một trong những đặc điểm nổi bật của thế giới đương đại. Các biến đổi của đời sống xã hội và con người đều gắn liền với CMKHCN. Tốc độ phát triển con người và phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia, cũng như của các khu vực và thế giới, phụ thuộc ngày càng nhiều vào sự phát triển của CMKHCN. Nó chi phối ngày càng nhiều, ngày càng mạnh các biến đổi của đời sống xã hội và của con người [tuổi thọ, bệnh tật, sức khỏe, làm đẹp,…] trong mỗi quốc gia cũng như trên phạm vi toàn cầu. Sức mạnh quân sự, quy mô và tốc độ của các cuộc chiến tranh, sức mạnh tấn công và phòng thủ của các quốc gia phụ thuộc ngày càng lớn vào CMKHCN. Cuộc cách mạng đó quyết định các chiều hướng phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, quan hệ quốc tế, giáo dục đào tạo, y tế và việc làm,… ở quy mô toàn cầu cũng như trong từng quốc gia riêng lẻ.

Cách mạng khoa học - công nghệ cũng tác động ngày càng mạnh mẽ đến những vấn đề toàn cầu. Một mặt, nó là công cụ, phương tiện hữu hiệu để có thể giải quyết những vấn đề toàn cầu đã và đang xuất hiện ngày một thêm căng thẳng đối với nhân loại. Mặt khác, nó cũng lại làm tăng thêm mức độ căng thẳng của một số vấn đề toàn cầu, thậm chí theo một số học giả, có thể làm xuất hiện những vấn đề toàn cầu mới. Những hậu quả tiêu cực do việc sử dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại [cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng sinh thái, vũ khí hủy diệt hàng loạt,…] đe dọa sự tồn vong và tương lai của mỗi con người và nhân loại nói chung.

Cách mạng khoa học - công nghệ đóng vai trò đặc biệt trong việc rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các quốc gia trên thế giới, nhưng đồng thời nó lại trở thành một trong những thách thức khó vượt qua được đối với các nước đang phát triển bởi những nước phát triển có tiềm lực khoa học và công nghệ mạnh, có thể đi vào tương lai với tốc độ nhanh hơn nhiều so với các nước có tiềm lực khoa học và công nghệ yếu kém hơn. Bằng cách đó nó gây ảnh hưởng khác nhau đến sự phát triển con người trong các quốc gia đang phát triển và các quốc gia phát triển.

Cách mạng khoa học - công nghệ, một mặt tác động trực tiếp vào đời sống xã hội và con người. Bằng cách gián tiếp hơn, nhưng lại mạnh mẽ hơn, nhanh chóng và sâu rộng hơn, nó tác động đến con người và xã hội thông qua cách mạng công nghiệp. Thông qua công nghệ, thông qua các sản phẩm trực tiếp của cách mạng công nghiệp thì những phát minh khoa học, kĩ thuật và công nghệ mới đi vào sản xuất và đời sống con người. Khoa học thực sự trở thành động lực của sự phát triển sản xuất và xã hội, nó tạo nên các sản phẩm và công nghệ mới, thúc đẩy sản xuất, con người, xã hội phát triển nhanh chóng.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba và cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sản phẩm trực tiếp của cách mạng khoa học - công nghệ hiện nay. Cách mạng công nghiệp là kết quả của sự phát triển rất nhanh chóng của khoa học, kĩ thuật và công nghệ. Trong cách mạng công nghiệp hiện nay những sản phẩm mới, công nghệ mới được tạo ra với tốc độ nhanh, mang tính cách mạng và được áp dụng ngay vào sản xuất, đời sống con người và xã hội, nhanh chóng tạo nên những thay đổi to tớn, những biến đổi cách mạng trong các lĩnh vực đó. Nền tảng kiến thức của cách mạng công nghiệp hiện đại chính là cách mạng trong khoa học và công nghệ.

Lịch sử nhân loại đã trải qua bốn cuộc cách mạng công nghiệp. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất bắt đầu từ khi có đầu máy hơi nước của Jame Watt vào giữa thế kỉ XVIII, kéo dài cho đến giữa thế kỉ XIX với nền tảng công nghệ là các phát minh cơ bản như máy hơi nước và công nghệ cơ khí như: máy kéo sợi, máy dệt, các lò luyện thép, tàu thủy, tàu hỏa chạy bằng hơi nước, sử dụng than đá. Nó diễn ra chỉ ở một số nước Tây Âu như Anh, Pháp, Ý, Hà Lan. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai từ giữa thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX dựa trên nền tảng của các phát minh về động cơ đốt trong, sử dụng dầu mỏ, động cơ diezen, ô tô, máy bay, máy phát điện và động cơ điện, sóng điện từ. Nền tảng công nghệ là các công nghệ điện từ. Nó diễn ra chủ yếu ở các nước Châu Âu và Bắc Mĩ, cụ thể là Tây Âu, Hoa Kì, Liên Xô và Nhật Bản.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba diễn ra mạnh mẽ từ cuối những năm 1950 với các phát minh cơ bản trong nhiều lĩnh vực như máy vi tính, robot, các vật liệu siêu bền, siêu dẫn, siêu cứng, polime, năng lượng nguyên tử, vệ tinh nhân tạo, tàu du hành vũ trụ, máy bay siêu thanh và hàng loạt các công nghệ mới như công nghệ vi sinh, công nghệ gen, công nghệ thông tin, công nghệ số. Nền tảng công nghệ rộng lớn hơn cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và thứ hai, nhưng căn bản và chủ yếu là công nghệ điện từ, công nghệ sinh học, công nghệ số. Nó tạo ra được những bước nhảy vọt về năng suất lao động, về quy mô và tốc độ phát triển sản xuất, làm biến đổi mạnh mẽ nhất đời sống con người và xã hội.

Đến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, các lực lượng sản xuất của xã hội có những bước phát triển nhảy vọt, khoảng cách thời gian từ phát minh khoa học đến ứng dụng vào thực tiễn ngày càng được rút ngắn, vòng đời các công nghệ và do đó, vòng đời các sản phẩm cũng được rút ngắn. Khối lượng thông tin và kiến thức tăng theo cấp số nhân. Nhiều ngành công nghiệp truyền thống bị xóa bỏ dần dần nhưng các ngành công nghiệp mới lại xuất hiện nhanh chóng hơn, và được ra đời không phải trực tiếp từ sản xuất mà là từ các phòng thí nghiệm, các lí thuyết khoa học. Công nghệ laze, công nghệ nano, công nghệ số,... là những ví dụ điển hình. Với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba con người tiếp tục được giải phóng khỏi các chức năng thực hiện, gồm vận chuyển, năng lượng, công nghệ. Việc giải phóng con người khỏi chức năng quản lí có những bước tiến đột phá thực sự, do nó tạo ra các loại rô bốt, các dây chuyền sản xuất tự động hóa

In bài viết
Gửi Email
Các tin đã đưa ngày:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM



BÁO CÁO TỔNG HỢP

CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ:

MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG, TÁC ĐỘNG VÀ HÀM Ý

Video liên quan

Chủ Đề