Phần tích nghệ thuật chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang trong cách mạng tháng 8

Thành công của Cách mạng Tháng Tám - nhìn từ góc độ nghệ thuật chỉ đạo chiến lược

18/08/2021

Cách mạng Tháng Tám diễn ra trong khoảng 15 ngày, nhân dân ta đã giành được chính quyền trên cả nước mà hầu như không bị tổn thất đáng kể nào. Nếu chỉ nhìn một cách đơn giản, phiến diện để đánh giá thì sẽ không thể thấy hết tầm vóc của sự kiện này, cũng như tài thao lược của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.


Mít-tinh tổng khởi nghĩa tại quảng trường Nhà hát Lớn
[Nguồn: //dangcongsan.vn]

Thành công của Cách mạng Tháng Tám thực chất là kết quả của nhiều yếu tố hợp thành; đặc biệt là của quá trình xây dựng thực lực cách mạng, chuẩn bị về mọi mặt trong suốt 15 năm kể từ khi Đảng ta ra đời năm 1930. Cùng với đường lối cách mạng dân tộc dân chủ đúng đắn, sáng tạo, còn là nghệ thuật chỉ đạo chiến lược tài tình, sắc sảo của Đảng, được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
1. Nghệ thuật chỉ đạo chuẩn bị lực lượng.
Hội nghị Trung ương 8 đề ra sự chuyển hướng về chỉ đạo chiến lược, hình thức đấu tranh cách mạng và chuẩn bị khởi nghĩa, khẳng định: “Khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”[1]. Đó là định hướng cho thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng rộng khắp chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa. Trong đó, nhấn mạnh việc gấp rút đào tạo cán bộ để gây dựng phong trào cách mạng phát triển ở cả nông thôn và thành thị. Đặc biệt, Hội nghị đã quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh [gọi tắt là Việt Minh], nhằm tập hợp lực lượng cách mạng rộng rãi. Đảng Cộng sản Đông Dương vừa là một bộ phận của Mặt trận Việt Minh, vừa lãnh đạo Mặt trận thông qua chủ trương, chính sách cách mạng trong các ủy ban của Mặt trận, đoàn thể cứu quốc. Ngày 25/10/1941, Tổng bộ công bố Chương trình Việt Minh, gồm 10 điểm, phổ biến rộng rãi trong quần chúng nhân dân. Nhờ đó, Việt Minh được nhân dân nhiệt liệt hoan nghênh, các đoàn thể cứu quốc phát triển rộng khắp cả Bắc, Trung, Nam. Ngoài Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, còn có Quân nhân [hay binh sĩ, du kích] cứu quốc, Thương gia cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nhi đồng cứu vong,... tạo thành lực lượng chính trị hùng hậu. Đây chính là nét đặc sắc trong nghệ thuật chỉ đạo chuẩn bị lực lượng của Đảng ta. Sự phát triển mạnh mẽ của các tổ chức chính trị đã tạo điều kiện cho các tổ chức vũ trang hoạt động, phát triển. Đặc biệt, sau khi Việt Minh ban hành Điều lệ của Việt Nam Tiểu tổ du kích cứu quốc, đã xuất hiện nhiều hình thức, như: tổ chức cán bộ bí mật, tổ bí mật quân sự hóa, tổ xung phong vũ trang, tiểu đội và trung đội vũ trang địa phương, v.v. Về cơ bản, những người gia nhập các tổ chức vũ trang này đều tự sắm sửa vũ khí, trang bị theo chức trách, nhiệm vụ. Cùng với đó, ba trung đội Cứu quốc quân [1, 2, 3] lần lượt ra đời để bảo vệ căn cứ địa cách mạng và mở rộng địa bàn. Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, sau đó hợp nhất với Cứu quốc quân thành Việt Nam Giải phóng quân. Như vậy, quá trình chuẩn bị lực lượng cho Tổng khởi nghĩa, Đảng ta đã bắt đầu từ xây dựng lực lượng chính trị, trên cơ sở đó xây dựng lực lượng bán vũ trang và vũ trang. Đây là những tổ chức rất mới, chưa từng có trước khi Đảng ta ra đời. Cơ cấu tổ chức, cách thức hoạt động đều hướng tới tập hợp được đông đảo quần chúng, chung tay thực hiện một mục tiêu, nguyện vọng cháy bỏng: giải phóng dân tộc.
2. Nghệ thuật chỉ đạo xây dựng căn cứ địa vững chắc.
Kế thừa kinh nghiệm truyền thống của dân tộc và với tầm nhìn chiến lược, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn Cao Bằng làm căn cứ, đến tháng 8/1943 nối thông với căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai, tạo thành thế liên hoàn, là cơ sở để tiến tới thành lập Khu Giải phóng Việt Bắc vào ngày 04/6/1945. Khu Giải phóng bao gồm 2 căn cứ lớn nằm trên địa bàn 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc phạm vi các tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái,... với gần một triệu dân, có các Ủy ban nhân dân do dân bầu, thực thi 10 chính sách lớn của Việt Minh, thực sự là “hình ảnh tươi sáng của nước Việt Nam ngày mai”[2]. Nơi đây cùng với các căn cứ trong cả nước sẽ là hậu phương và bàn đạp cho thế trận Tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ chín muồi, để “…đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”[3].
3. Nghệ thuật nắm thời cơ, tận dụng thời cơ chín muồi để phát động khởi nghĩa.
Nắm chắc tình hình và chớp thời cơ để kịp thời hành động là nhân tố quan trọng bảo đảm chắc thắng, nhưng ít tổn thất. Vấn đề này đã được các nhà quân sự cổ đại đúc rút: “Biết địch biết mình, giành thắng lợi không gặp hiểm nguy; biết thiên thời địa lợi nữa, giành thắng lợi mới thật đảm bảo”[4]. Hiểu rõ điều đó, tháng 9/1944, khi nhận được tin Liên Tỉnh ủy Cao – Bắc – Lạng chủ trương “Phát động chiến tranh du kích và gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa”, từ biên giới Việt - Trung, Bác Hồ đã chỉ thị dừng lại, nhờ đó tránh được tổn thất và che giấu lực lượng, tiếp tục phát triển để chờ thời cơ chín muồi. Ngay khi Nhật đảo chính Pháp [09/3/1945], Ban Thường vụ Trung ương Đảng kịp thời ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” [ngày 12/3/1945], xác định rõ thời cơ chín muồi và chưa chín muồi [điều kiện khởi nghĩa], đề ra chủ trương hành động, phát triển phong trào quần chúng. Qua đó, một loạt chiến khu ở các vùng, miền trong cả nước đã được thành lập. Khi Nhật đầu hàng Đồng minh, đêm 13/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc đã ra Quân lệnh số 1, hiệu triệu toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Lệnh Tổng khởi nghĩa được phát ra vào lúc thời cơ chín muồi thể hiện nghệ thuật nắm thời cơ, tận dụng thời cơ tài tình của Đảng ta. Vì nếu sớm, sẽ bị lực lượng phát-xít Nhật lúc đó còn mạnh sẽ đàn áp; còn nếu muộn thì càng phức tạp vì đội quân “nhập Việt” của Tưởng đã đóng sát biên giới Việt - Trung.
4. Nghệ thuật tổ chức khởi nghĩa từng phần, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc.
Với tư tưởng quân sự “thượng sách của việc dùng binh là dùng mưu lược để giành thắng lợi, sau mới đến việc dùng ngoại giao để giành thắng lợi, sau nữa mới đến dùng lực lượng quân sự để giành thắng lợi, hạ sách là đánh thành”5, khởi nghĩa từng phần được tiến hành rất đa dạng, phong phú, ít tổn thất nhưng giành thắng lợi triệt để. Hà Nội là địa phương tiêu biểu về sự chủ động kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao để giành chính quyền. Xuất phát từ cuộc mít tinh chiều 17-8-1945 do Tổng hội viên chức của chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim tổ chức tại quảng trường Nhà hát Lớn, có lực lượng bảo an, cảnh sát giữ gìn trật tự, nhưng Việt Minh đã khéo léo dùng kế “Phản khách vi chủ”[6] [đổi khách thành chủ] để chiếm diễn đàn, tuyên bố đường lối cứu nước của Việt Minh, kêu gọi nhân dân Thành phố ủng hộ Việt Minh, đả đảo chính quyền thân Nhật và tay sai. Dưới sự hướng dẫn của các đội tự vệ chiến đấu, nhân dân nhanh chóng xuống đường tuần hành, biến thành cuộc biểu dương lực lượng cách mạng. Cuộc tuần hành này làm cho quân Nhật và tay sai hoang mang cực độ, Khâm sai Bắc Kỳ Phan Kế Toại lập tức xin từ chức. Nhận thấy đây là thời điểm có thể dùng kế “Thuận thủ khiên dương”[7] [tiện tay dắt dê], nên dù chưa nhận được Quân lệnh số 1, nhưng Ủy ban Quân sự Cách mạng Hà Nội đã mạnh dạn căn cứ vào Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” để quyết định khởi nghĩa vào ngày 19/8 bằng lực lượng quần chúng đông đảo, có các đội tự vệ chiến đấu, đội tuyên truyền xung phong làm nòng cốt. Vấn đề quan trọng đặt ra lúc này là phải cô lập và vô hiệu hóa lực lượng phát-xít Nhật, vì tuy chúng đã đầu hàng Đồng Minh nhưng đến ngày 21/8 lệnh ngừng bắn mới có hiệu lực. Do đó, Ủy ban cách mạng vừa sử dụng truyền đơn, vừa dùng lời lẽ ôn hòa, khéo léo thuyết phục quân đội Nhật muốn yên ổn về nước, không nên can thiệp vào công việc nội bộ của người Việt Nam, tránh đổ máu vô ích. Nhờ vậy, sáng 19/8, từ các hướng ngoại thành, quần chúng mang theo vũ khí, cờ đỏ sao vàng, rầm rộ tiến về quảng trường Nhà hát Lớn dự mít tinh mà không đụng độ với quân Nhật. Sau khi nghe Việt Minh đọc lời hiệu triệu, cuộc mít tinh biến thành biểu tình có vũ trang đi chiếm Phủ Khâm sai, Kho bạc, Tòa Thị chính, Trại Bảo an binh, v.v. Đến chiều tối cùng ngày, Việt Minh đã làm chủ toàn Thành phố. Khởi nghĩa ở Hà Nội thành công đã tiếp sức mạnh để nhân dân và “đạo quân chính trị” Huế, Sài Gòn đứng lên giành chính quyền. Tại Huế, với sự ủng hộ của trên 15 vạn nhân dân, lãnh đạo khởi nghĩa đã thuyết phục được Bảo Đại thoái vị nên ngày 23/8 khởi nghĩa thành công mà không phải nổ súng. Tiếp theo, ngày 25/8, hơn một triệu người Sài Gòn – Gia Định đã đứng lên khởi nghĩa thành công. Phát huy thắng lợi ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, các tỉnh còn lại cũng đều tổ chức khởi nghĩa bằng hình thức kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và ngoại giao để giành chính quyền.
Như vậy, trải qua quá trình đấu tranh chính trị phát triển lên chiến tranh du kích cục bộ, khởi nghĩa từng phần ở một số địa phương, gây dựng Khu Giải phóng làm căn cứ kháng chiến, cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám đã giành thắng lợi trọn vẹn.

Nguyễn Công Tâm

___________

1 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H. 2000, tr.132.
2 - Đại tướng Võ Nguyên giáp - Tổng tập hồi ký, Nxb QĐND, H. 2006, tr. 123.
3 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 596.
4 - Tôn - Ngô binh pháp, Nxb Công an nhân dân, H. 1994, tr. 136.
5 - Sđd, tr. 80.
6 - Tam thập lục kế binh pháp bí truyền, Nxb Văn hóa thông tin, H. 2001, tr. 186.
7 - Sđd, tr. 73.

Theo Tạp chí Quốc phòng Toàn dân

Chia sẻ
Tweet

Nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang trong Cách mạng ThángTám

QĐND – Cách mạng Tháng 8-1945 thành công là thắng lợi của tư tưởng khoa học cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, trước hết là đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã để lại cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới bài học về nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang cách mạng giành chính quyền.

Lực lượng vũ trang và quần chúng nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền ở Biên Hòa [Đồng Nai]. Ảnh tư liệu

Đầu năm 1945, tình hình thế giới và Đông Dương đã có những điều kiện mới, nhân tố mới cho phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam phát triển thành cao trào rộng lớn. Chiến tranh thế giới thứ II bước vào giai đoạn kết thúc, ở Đông Dương, đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đông Dương. Trước sự kiện đó, Thường vụ Trung ương Đảng đã họp bàn, phân tích thế ta và địch, ra Bản chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Trung ương Đảng chỉ đạo khởi nghĩa từng phần ở những địa phương có đủ điều kiện. Trong chỉ đạo và thực hành khởi nghĩa từng phần, Đảng ta đã thành công về xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang [LLVT]và kết hợp hai lực lượng đó trong cuộc đấu tranh, chuẩn bị đón thời cơ khởi nghĩa. Đảng ta còn thành công trong xây dựng, phát triển căn cứ địa và chiến khu cách mạng trên phạm vi cả nước, lấy đó làm chỗ đứng chân và bàn đạp choLLVT hoạt động, chuẩn bị người, vũ khí cho tổng khởi nghĩa, tạo lập thế và lực, phát động cao trào kháng Nhật, tập dượt cho quần chúng sẵn sàng bước vào hành động cách mạng. Đây là thời kỳ Đảng từng bước xây dựng những nhân tố bảo đảm cho thành công của tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.

Khi thời cơ đến, Đảng ta kịp thời phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc, lậpỦy ban Khởi nghĩa toàn quốc và cử cán bộ chủ chốt đi các địa ph­ương lãnh đạo tổng khởi nghĩa. Đảng ta xác định rõ nguyên tắc khởi nghĩa là tập trung, thống nhất, kịp thời; phư­ơng châm tác chiến là đánh chiếm những nơi chắc thắng không kể thành phố hay thôn quê, thành lậpủy ban nhân dân ở nơi ta đã làm chủ. Điều kiện đánh là: Nơi nào cần và chắc thắng thì đánh. Nguyên tắc đánh: Quân sự và chính trị phối hợp. Chiến thuật đánh: Đánh địch tiến công, phòng ngự và thoái thủ. Hành động của LLVTlà: Đánh cho quân giặc những đòn chí tử, tiêu diệt lực lượng của chúng, chiếm lấy những căn cứ chính [cả đô thị] trước khi quân Đồng minh vào, tập trung lực lượng vào những chỗ cần thiết để đánh, làm tan rã tinh thần quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh.

Về sử dụng lực l­ượng, ta sử dụng đồng thời cả tiến công của lực lượng quân sự với nổi dậy của lực lượng quần chúng d­ưới sự chỉ huy củaỦy ban Khởi nghĩa toàn quốc và từng địa ph­ương, trong đó sự nổi dậy của lực l­ượng chính trị đóng vai trò quyết định, tiến hành mít tinh, biểu tình, bao vây các công sở, gây sức ép, kêu gọi địch đầu hàng, tuyên truyền thanh thế của cách mạng, thị uy biểu dương lực lư­ợng. Lực lượng quân sự làm hậu thuẫn cho nổi dậy của quần chúng và sử dụng khi cần thiết để diệt ác, trừng trị kẻ ngoan cố. Địa bàn khởi nghĩa diễn ra cả nông thôn và thành thị với tinh thần đồng loạt nổi dậy. Khi nhận được “Quân lệnh số 1”, hầu như­ cả nư­ớc đều nhất loạt khởi nghĩa [ở miền Bắc nhất loạt cả thành thị và nông thôn, miền Nam từ thành thị lan về nông thôn], làm cho quân Nhật trở tay không kịp, không còn khả năng giải tỏa, ứng cứu chi viện cho nhau. Về mục tiêu tổng khởi nghĩa, ta chọn các cơ quan đầu não, các công sở chính quyền địch làm mục tiêu tiến công chủ yếu, nh­ư: Tòa Khâm sai, Phủ Toàn quyền và những cơ quan đầu não ở các tỉnh, thành phố… Việc lựa chọn mục tiêu chính xác, góp phần thúc đẩy tổng khởi nghĩa giành thắng lợi nhanh chóng trên cả nước. Trong Cách mạng Tháng 8-1945, Đảng ta đã giải quyết thành công những vấn đề về lý luận và thực tiễn của nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang cách mạng. Đó là những vấn đề về tạo thời cơ, nắm thời cơ, sử dụnglực lượng, xác định địa bàn và phương thức khởi nghĩa, lựa chọn mục tiêu tiến công… Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công góp phần làm nên nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý, vẫn còn nguyên giá trị.

Hiệnnay, cả nước tađang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt NamXHCN, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa…, các nội dung nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang trong Cách mạng ThángTámnói riêng, nghệ thuật quân sự Việt Nam nói chung cần được nghiên cứu và phát triển lên một tầm cao mới. Những kinh nghiệm, nghệ thuật tổng khởi nghĩa đang được vận dụng nghiên cứu, phát triển, cụ thể hóa đường lối quân sự của Đảng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xâydựng LLVT nhân dân vững mạnh toàn diện, nhằm đánh bại hành động xâm lược vũ trang của các thế lực thù địch, trước mắt, làm thất bại âm mưu thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Đại táĐào Văn Đệ

Nguồn: qdnd.vn
Vkyno [st]

Chia sẻ:

  • Facebook
  • Twitter
  • Tumblr

Thích bài này:

Thích Đang tải...

Có liên quan

Chuyên mục:Nghệ thuật quân sự Việt Nam Thẻ:Cách mạng Tháng Tám, Chính trị, Quân sự

Bài giảng Nghệ thuật chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang trong cách mạng tháng tám 1945 ở Việt Nam - Phạm Quốc Văn

Ngày 13.8 Nhật đầu hàng Đồng Minh. Cũng ngày

13.8 Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại

Tân Trào, đề ra chủ trương Tổng khởi nghĩa. Đêm

13.8 uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập

do đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh phụ trách,

Uỷ ban đã phát đi “quân lệnh số 1”, nhấn mạnh giờ

tổng khởi nghĩa đã đến Nghị quyết tổng khởi

nghĩa nêu 3 nguyên tắc thực hành khởi nghĩa ở

địa các phương:

-Tập trung lực lượng vào những việc chính

-Thống nhất mọi phương diện chính trị, quân sự,

hành động và chỉ huy

-Kịp thời hành động không bỏ lỡ thời cơNgày 16.8 Quốc dân đại hội họp tại Tân Trào , tán

thành và thông qua chủ trương Tổng khởi nghĩa

của Đảng và 10 chính sách lớn của Tổng bộ Việt

Minh. Đại hội cử ra uỷ ban dân tộc giải phóng, tức

Chính phủ lâm thời Việt Nam do Hồ Chí Minh làm

chỉ tịch.

Cùng ngày Hồ Chí Minh đã gởi thư kêu gọi đồng bào

cả nước “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã

đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức

ta mà tự giải phóng cho ta”

Tình hình vô cùng khẩn trương. Điều kiện khởi nghĩa

đã chín muồi. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị “Lúc

này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh đến đâu,

dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải

kiên quyết giành cho được độc lập

24 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Ngày: 15/09/2021 | Lượt xem: 47 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Nghệ thuật chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang trong cách mạng tháng tám 1945 ở Việt Nam - Phạm Quốc Văn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHỆ THUẬT CHỈ ĐẠO KHỞI NGHĨA VŨ TRANG TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 Ở ViỆT NAM Giảng viên chính Đại tá TS.Phạm Quốc Văn NGHỆ THUẬT CHỈ ĐẠO KHỞI NGHĨA VŨ TRANG TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 Ở ViỆT NAM ***** Mục đích, yêu cầu. -Giúp cho sinh viên nắm được quan điểm về khởi nghĩa vũ trang của chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối của Đảng ta. -Nắm được nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang của Đảng ta trong cách mạng tháng tám 1945 NGHỆ THUẬT CHỈ ĐẠO KHỞI NGHĨA VŨ TRANG TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 Ở ViỆT NAM ***** I.Quan điểm về khởi nghĩa vũ trang của chủ nghĩa Mác-Lênin Những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin luôn coi lãnh đạo, chỉ đạo và thực hành khởi nghĩa là một nghệ thuật. Nói về thời cơ phát động khởi nghĩa, trong cuốn “bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản” Lênin chỉ rõ “khởi nghĩa” là trận cuối cùng và quyết định nên phải rất thận trọng, chắc chắn và phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau: - “ Một là, làm cho nội bộ giai cấp vô sản phải thống nhất tư tưởng, nhất trí hành động kiên quyết nhất, dũng cảm và cách mạng nhất chống lại giai cấp tư sản. Hai là, giai cấp tiểu tư sản, các phần tử trung gian, do dự ngả theo CM. Ba là, các lực lượng của giai cấp thù địch đã suy yếu đi nhiều chỉ lúc đó CM mới chín muồithắng lợi của chúng ta mới được bảo đảm”. -Trong tác phẩm: “Cách mạng và phản CM ở Đức” Ăng-ghen nhấn mạnh: “khởi nghĩa là một nghệ thuật, phải tuân theo một quy tắc nhất định. Thứ nhất, phải hết sức thận trọng, phải chuẩn bị được lực lượng hơn hẳn đối phương. -Thứ hai, khi khởi nghĩa phải hành động với quyết tâm rất lớn, phải giành thế tiến công, tiến công liên tục, triệt để, tạo bất ngờ. Phòng ngự là sự diệt vong của mọi cuộc khởi nghĩa. -Trong thư của Lênin gửi Ban Chấp hành trung ương Đảng Công nhân dân chủ-xã hội Nga với nhan đề “Chủ nghĩa Mác và khởi nghĩa vũ trang” Lênin viết: “Muốn thắng lợi, khởi nghĩa không được dựa vào một cuộc âm mưu, một chính đảng mà phải dựa vào giai cấp tiên phong. Khởi nghĩa phải dựa vào cao trào CM của nhân dân. Khởi nghĩa phải dựa vào bước ngoặt trong lịch sử của cuộc CM, tinh thần quần chúng lên cao, kẻ thù đang dao động. Khi đã hội tụ đủ 3 điều kiện ấy mà không tiến hành khởi nghĩa là phản lại chủ nghĩa Mác phản bội CM” II.Sự chuẩn bị về đường lối, quan điểm của Đảng cho tổng khởi nghĩa -Thấm nhuần quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin về khởi nghĩa và đấu tranh CM, trong luận cương chính trị [10.1930], Đảng đã xác định con đường giành chính quyền về tay công nông là con đường vũ trang bạo động: “khi giai cấp thống trị đã rung động, các giai cấp đứng giữa đã muốn bỏ về phe CM, quần chúng công nông thì sôi nổi CM, quyết hy sinh chiến đấu, thì Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chính quyền địch, giành chính quyền cho công nông” -Tháng11.1939, hội nghị Trung ương lần 6 họp tại Bà Điểm nhấn mạnh: Tất cả mọi vấn đề của CM đều nhằm vào giải quyết mâu thuẫn chủ yếu giữa các dân tộc ở Đông Dương với đế quốc xâm lược, cần dự bị những điều kiện bước tới bạo động, làm CM giải phóng dân tộc. -Tháng 10.1940, hội nghị Trung ương lần 7 họp ở Đình Bảng [Bắc Ninh] chỉ rõ: “Đảng phải chuẩn bị giành lấy sứ mệnh thiêng liêng, lãnh đạo các dân tộc bị áp bức Đông Dương vũ trang bạo động, giành quyền tự do, độc lập”. “Tuy nước ta chưa đứng trước tình thế trực tiếp CM, nhưng do tình hình quốc tế và trong nước ngày càng sôi động, CM nước ta có thể nổ ra bằng những cuộc khởi nghĩa địa phương ở những nơi có điều kiện tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền cả nước -Hội nghị Trung ương lần 8 [5.1941] tại Pắc Bó nhấn mạnh: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những đoàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Hội nghị quyết định đổi tên “mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít Pháp-Nhật” thành “Việt Nam độc lập đồng minh”, gọi tắt là Việt Minh để tập hợp đông đảo hơn nữa các lực lượng, các tầng lớp nhân dân tham gia tranh đấu. -Hội nghị còn xác định cụ thể. Khi thời cơ tới “với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo cuộc khởi nghĩa từng phần, trong từng địa phương cũng có thể giành thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”. Đây chính là sự vận dụng của Đảng ta. Về phương pháp đấu tranh CM phải sử dụng khởi nghĩa vũ trang. Điều kiện để khởi nghĩa là: 1.Mặt trận cứu quốc đã thống nhất đến toàn quốc. 2.Nhân dân đã sống cùng cực dưới ách thống trị của phát xít Pháp-Nhật, đã sẵn sàng hy sinh chiến đấu, nổi dậy giành chính quyền. 3.Phe thống trị Đông Dương đã bước vào khủng hoảng cực điểm cả về kinh tế, chính trị, quân sự. 4.Quân Nhật thua Trung Quốc, CM Pháp, Nhật nổ ra, Phe dân chủ thắng ở Thái Bình Dương, Liên Xô đại thắng phát xít. III.Diễn biến tổng khởi nghĩa tháng tám 1945. 1.Thời cơ và chủ trương tổng khởi nghĩa Ngày 13.8 Nhật đầu hàng Đồng Minh. Cũng ngày 13.8 Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào, đề ra chủ trương Tổng khởi nghĩa. Đêm 13.8 uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập do đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh phụ trách, Uỷ ban đã phát đi “quân lệnh số 1”, nhấn mạnh giờ tổng khởi nghĩa đã đếnNghị quyết tổng khởi nghĩa nêu 3 nguyên tắc thực hành khởi nghĩa ở địa các phương: -Tập trung lực lượng vào những việc chính -Thống nhất mọi phương diện chính trị, quân sự, hành động và chỉ huy -Kịp thời hành động không bỏ lỡ thời cơ Ngày 16.8 Quốc dân đại hội họp tại Tân Trào , tán thành và thông qua chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách lớn của Tổng bộ Việt Minh. Đại hội cử ra uỷ ban dân tộc giải phóng, tức Chính phủ lâm thời Việt Nam do Hồ Chí Minh làm chỉ tịch. Cùng ngày Hồ Chí Minh đã gởi thư kêu gọi đồng bào cả nước “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” Tình hình vô cùng khẩn trương. Điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập” 2. Sơ lược diễn biến Do nắm bắt được tình hình, thời cơ thuận lợi đang tới, thấm nhuần chủ trương khởi nghĩa giành chính quyền, nhiều cán bộ ở cơ sở và các cấp đã nhạy bén phát lệnh khởi nghĩa. Cuộc đấu tranh CM đứng trước tình thế nhảy vọt đã từ khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền địa phương chuyển thẳng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi cả nước. Từ 14-18.8 các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Yên Bái, Phú Thọ, Bắc Giang, Vĩnh yên, Phúc Yên, Bắc Ninh, Hà Đông, Sơn Tây, Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An, Ninh Bình, Thái Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Kháng Hoà, Mỹ Tho, Sa Đécđã chớp thời cơ nổi dậy giành chính quyền. -Ngày 19.8 khởi nghĩa ở Hà Nội và các tỉnh Yên Bái, Thái Bình, Phúc Yên, Thanh Hoá, Khánh Hoà. Ngày 20 là Bắc Ninh, Thái Nguyên, Ninh BìnhNgày 21.8 là Cao Bằng, Tuyên Quang, Sơn TâyNgày 23.8 là các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Bình ĐịnhNgày 24.8 là Phú Yên, Bình Thuận, Đắc LắcNgày 25 là Sài Gòn, Vĩnh Long, Châu ĐốcNgày 28.8 Cần Thơ, Rạch GiáNgày 28.8 tỉnh lỵ cuối cùng là Hà Tiên cũng thiết lập được chính quyền CM. Chỉ trong vòng 14 ngày từ 14-28.8 chính quyền phong kiến và thực dân đã bị lật đổ và thiết lập chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước. 3.Đặc điểm hình thái khởi nghĩa của các địa phương trong Cách mạng tháng Tám. a. Trong cuộc vận động CM, xây dựng lực lượng chính trị và các đơn vị vũ trang [1941-8.1945] Cao trào kháng Nhật diễn ra đều khắp và nhiều hình thức phong phú. 28 tỉnh và 3 thành phố, trong đó có Hà Nội, Huế khởi nghĩa xuất phát từ thôn, xã lên huyện, tỉnh hoặc từ ngoại thành vào nội thành. Có 24 tỉnh [chủ yếu ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, khởi nghĩa lại xuất phát từ tỉnh lỵ xuống các huyện, xã. Có 7 tỉnh cả nông thôn và tỉnh lỵ cùng đồng thời khởi nghĩa. -Vì Bắc bộ và Bắc Trung bộ cơ sở Đảng và Mặt trận Việt Minh ở nông thôn khá phát triển. b.Ở Nam bộ, phong trào CM gặp khó khăn bị tổn thất nặng nề từ sau khởi nghĩa Nam kỳ do thực dân Pháp đàn áp, mặt khác ở xa Trung ương nên sự chỉ đạo không được kịp thời nên khởi nghĩa muộn hơn và ở tỉnh lỵ trước. c. Vai trò của các thành phố lớn trong tổng khởi nghĩa rất quan trọng. Khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn có ý nghĩa quyết định thắng lợi chung của CM cả nước. Qua hình thái diễn biến khởi nghĩa đã phản ánh sự chuẩn bị của Đảng ta là đều khắp từ Bắc chí Nam, cả nông thôn, thành thị và rừng núi, hai lực lượng cơ bản của CM là nông dân và công nhân, đã kết hợp chặt chẽ hai hình thức ĐT, trong đó ĐT chính trị là chủ yếu, ĐTVT giữ vai trò hỗ trợ Cách mạng tháng 8 thắng lợi mau chóng, trọn vẹn là kết quả của 15 năm chuẩn bị của toàn dân, dưới sợ lãnh đạo của Đảng, kết quả của 3 cuộc tập dượt lớn: Cao trào CM 1930-1931, đỉnh cao là Xô-Viết Nghệ- Tĩnh, Đảng đã giương cao ngọn cờ dân tộc, dân chủ, bước đầu xây dựng khối liên minh công nông, sử dụng bạo lực giành chính quyền ở một địa phương; cuộc vận động dân chủ 1936-1939, đã tập hợp mặt trận dân chủ rộng rãi làm uy tín của Đảng được nâng cao; cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939-1945, Đảng đã chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc là trọng tâm, xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang lớn mạnh, với phương pháp CM thích hợp, chọn đúng thời cơ giành chính quyền. IV.Mấy vấn đề nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang trong cách mạng tháng tám 1. Nghệ thuật khởi nghĩa từng phần. -Từ xây dựng lực lượng cơ sở vững chắc ở từng địa phương, thực hiện đánh đổ từng bộ phận, tiến tới đánh đổ hoàn toàn hệ thống chính quyền địch. Từ 1941 đến trước ngày 9.3.1945 là quá trình xây dựng lực lượng, phát triển căn cứ địa, phát động chiến tranh du kích cục bộ đồng thời đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở địa phương chuẩn bị lực lượng mọi mặt đón thời cơ khởi nghĩa. -Trong chỉ đạo và thực hành khởi nghĩa từng phần, Đảng đã xây dựng LL chính trị, LLVT và kết hợp hai lực lượng đó, chuẩn bị đón thời cơ khởi nghĩa, xây dựng căn cứ và chiến khu cách mạng trên phạm vi cả nước làm bàn đạp, tạo lập thế và lực, phát động cao trào kháng Nhật, tập dượt, sẵn sàng hành động cách mạng. Đây là thời kỳ Đảng từng bước xây dựng những nhân tố bảo đảm cho thành công của khởi nghĩa vũ trang. 2.Nghệ thuật tạo thời cơ và đón thời cơ. Thời cơ cách mạng là những điều kiện chủ quan và khách quan chín muồi tạo thuận lợi cho hành động CM Thời cơ xuất hiện có thể do ngẫu nhiên, nhưng thường là do năng động chủ quan của ta mà có hoặc do những sai lầm của địch. Đảng ta đã quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thời cơ khởi nghĩa theo các nội dung sau: -Đảng đã thường xuyên nắm chắc tình hình, vừa nắm vững nguyên tắc lại vừa linh hoạt, nhạy bén trước sự chuyển biến của tình thế, đưa ra những dự kiến tài tình về thời cơ tổng khởi nghĩa, -Đảng đã tích cực chuẩn bị điều kiện vất chất và tinh thần cho tổng khởi nghĩa, vừa tuân thủ những quy luật khách quan, vừa phát huy năng động chủ quan, coi đó là yếu tố quyết định cho việc tạo thời cơ và đón thời cơ khởi nghĩa. -Trong quá trình chuẩn bị lâu dài, Đảng đã chỉ đạo hoạt động du kích tại địa phương khởi nghĩa từng phần. Khi Nhật đảo chính Pháp, Đảng đã chớp thời cơ thuận lợi, thực hành khởi nghĩa từng phần, chuẩn bị đón thời cơ tổng khởi nghĩa. -Khi thời cơ xuất hiện, Đảng đã sớm phát hiện và kịp thời có các chủ trương hành động cần thiết, táo bạo, sáng tạo để tận dụng và phát động toàn dân nhất tề đứng lên giành chính quyền. 3.NGhệ thuật chỉ đạo thực hành tổng khởi nghĩa. Đảng đã đề ra sách lược đấu tranh rất linh hoạt: Nơi nào bắt buộc cần đòn tiến công của lực lượng vũ trang thì kiên quyết đánh, nơi nào có thể buộc kẻ địch đầu hàng bằng hình thức đấu tranh mềm dẻo hơn, đỡ tốn xương máu hơn mà vẫn giành được thắng lợi thì phải hết sức tận dụng. Trong quá trình tổng khởi nghĩa, Đảng ta đã sử dụng đồng thời cả LLVT và LLCT quần chúng, trong đó LLCT quần chúng đóng vai trò quyết định thắng lợi. Kết hợp chặt chẽ hai đòn tiến công và nổi dậy theo nguyên tắc: “Tập trung, thống nhất, kịp thời, linh hoạt”, Tập trung lực lượng vào mục tiêu chính; thống nhất các mặt quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy; kịp thời tổ chức hành động đồng loạt không bỏ lỡ thời cơ; linh hoạt trong từng hoàn cảnh cụ thể để vận dụng chỉ đạo hai lực lượng. Cuộc tổng khởi nghĩa của toàn dân dưới các hình thức mít tinh, biểu tình, tuần hành thị uy, biểu tình có vũ trang đánh chiếm các công sở, chính quyền, đồn trại lính địch đã trở thành hình thức đấu tranh chủ yếu, quyết định thắng lợi, tiêu biểu như Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Câu hỏi nghiên cứu – thảo luận ***** 1.Nghệ thuật khởi nghĩa từng phần; Nghệ thuật tạo thời cơ và đón thời cơ; Nghệ thuật chỉ đạo thực hành tổng khởi nghĩa? KiỂM TRA GiỮA MÔM – LỊCH SỬ QUÂN SỰ VN ***** làm rõ nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang trong cách mang tháng tám.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • bai_giang_nghe_thuat_chi_dao_khoi_nghia_vu_trang_trong_cach.pdf

Video liên quan

Chủ Đề