Cơ hội và thách thức của ngân hàng Vietcombank

Là một trong những đơn vị tốp đầu của Việt Nam trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, Vietcombank đã có những chính sách dịch chuyển gì trong xu hướng phát triển mô hình kinh doanh mới của ASEAN trong tình trạng bình thường mới hiện nay?

Đại dịch Covid-19 đã tác động rất tiêu cực tới nền kinh tế toàn cầu, các doanh nghiệp và cả các ngân hàng Việt Nam. Trong trạng thái bình thường mới, Vietcombank đã có những bước chuyển dịch, tái định hình, cấu trúc lại danh mục tín dụng theo hướng an toàn và bền vững hơn. Cùng với đó, thúc đẩy nhanh quá trình số hóa, chuyển đổi số và đa dạng các dịch vụ ngân hàng điện tử. Vừa qua, Vietcombank đã khai trương hệ thống thanh toán số mới trên cơ sở tích hợp những dịch vụ tiện ích của Internet Banking và Mobile Banking trước đây. Chiến lược “chuyển đổi số” chính là chìa khóa thành công giúp Vietcombank đón đầu cơ hội, vượt qua thách thức và tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường.

Tòa nhà trụ sở chính của Vietcombank.

Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt trong bối cảnh sau đại dịch Covid-19, Vietcombank sẽ tiếp tục tích cực, chủ động trong nghiên cứu, tập trung phát triển hệ sinh thái số để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng, vận hành hài hòa trong bối cảnh những thách thức mới của cuộc khủng hoảng do dịch bệnh cũng như đối phó với những thách thức tiềm ẩn trong tương lai.

Năm 2020, Vietcombank xác định phương châm hành động “Chuyển đổi - An toàn - Hiệu quả - Bền vững”. Bên cạnh việc duy trì mức tăng trưởng ổn định về quy mô, Vietcombank luôn theo đuổi mục tiêu bảo đảm chất lượng tài sản. Vietcombank đã tích cực, chủ động tham gia hỗ trợ khách hàng, bao gồm người dân và doanh nghiệp chịu tác động của Covid-19, đã rà soát lại danh mục các khoản vay, thận trọng trong việc trích lập dự phòng rủi ro. Đến nay tỷ lệ dự phòng bao nợ xấu của Vietcombank luôn được duy trì ở mức cao nhất toàn ngành, tiếp tục duy trì vị thế ngân hàng có chất lượng tài sản tốt nhất Việt Nam.

Trước những khó khăn được đánh giá chưa từng có, nhằm chia sẻ khó khăn, Vietcombank đã có những chính sách hỗ trợ nào và giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi và tạo điều kiện tốt nhất cho doanh nghiệp?

Với vai trò là ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam, Viecombank cam kết luôn đồng hành, chia sẻ khó khăn cùng khách hàng. Điều này được thể hiện bằng hàng loạt các giải pháp và hành động kịp thời, thiết thực đã được Viecombank triển khai trong thời gian qua theo đúng chủ trương của Chính phủ và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước.

Ngay từ đầu năm 2020, Viecombank đã triển khai các chương trình lãi suất cho vay đặc biệt, cụ thể: [i] Giai đoạn 1, giảm lãi suất cho vay thông qua chương trình cho vay mới với quy mô dư nợ 30.000 tỷ đồng, mức lãi suất từ 4,5-5%/năm, thấp nhất trên thị trường; [ii] giai đoạn 2, tiếp tục giảm lãi suất cho vay cho 90 nghìn khách hàng với quy mô tín dụng là 300.000 tỷ đồng, tương đương gần 50% dư nợ hiện nay của Viecombank; [iii] giai đoạn 3, giảm đồng loạt lãi suất tiền vay để hỗ trợ toàn bộ danh mục các khách hàng doanh nghiệp và khách hàng cá nhân ở cả mục đích vay sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Chương trình hỗ trợ, ưu đãi lãi suất của Viecombank với mức lãi suất luôn thấp hơn 0,5 đến 1,5% so mặt bằng lãi suất chung của thị trường.

Hoạt động giao dịch.

Viecombank cũng đã thực hiện giảm đồng loạt phí giao dịch ngân hàng điện tử 24/7 cho khách hàng nhằm khuyến khích khách hàng sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, đồng thời thực hiện miễn phí chuyển tiền ủng hộ phòng chống dịch Covid-19. Ước tính, tổng số tiền lãi và phí của Viecombank chia sẻ với khách hàng ở mức gần 3.000 tỷ đồng. 

Ngoài ra, Viecombank cũng đã ủng hộ hàng chục tỷ đồng cho các tổ chức, đơn vị để mua trang thiết bị y tế và các nhu yếu phẩm phòng, chống dịch bệnh.

Trong những khó khăn hiện tại của kinh tế thế giới do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, tương lai, ASEAN vẫn được đánh giá khá tươi sáng và tăng trưởng sẽ sớm quay trở lại. Ông nhìn nhận thế nào về cơ hội này của khu vực? Theo ông, mỗi doanh nghiệp cần phải làm gì? Và các nhà hoạch định chính sách ở tầm khu vực và quốc gia nên làm gì để hỗ trợ những nỗ lực này của doanh nghiệp?

Với việc thích ứng, chủ động và linh hoạt ứng phó với dịch bệnh Covid-19, ASEAN vẫn được coi là khu vực có cơ hội phát triển kinh tế tốt nhất sau đại dịch. Do đó, đây là khu vực thu hút được sự quan tâm của giới đầu tư, kinh doanh quốc tế trong làn sóng chuyển dịch chuỗi cung ứng trên toàn cầu. Cộng đồng ASEAN cần kết nối hiệu quả trong nội khối và hội nhập sâu rộng với bên ngoài, dựa trên sự sáng tạo, ổn định và hài hòa với sự lan tỏa của Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trong đời sống kinh tế, xã hội của cả cộng đồng.

Nhằm tận dụng những cơ hội của khu vực, về tổng thể, các doanh nghiệp trong khối ASEAN nên xây dựng chiến lược thích ứng, linh hoạt đi cùng việc chuyển đổi công nghệ số, theo ba nhóm giải pháp. Đầu tiên là tập trung quản lý khủng hoảng và quản lý thanh khoản. Thứ hai, hướng đến tạo ra những giá trị ngắn hạn thông qua việc rà soát, đưa ra các giải pháp có thể thực hiện ngay để tăng hiệu quả hoạt động và tăng dòng tiền. Cuối cùng, các doanh nghiệp cần tập trung vào chiến lược tái định vị, bao gồm cải tổ mô hình kinh doanh, xem xét lại mô hình tăng trưởng, đa dạng hóa chuỗi cung ứng, cải tổ phương thức phản hồi… nhằm tương tác tốt và hiệu quả hơn với hành vi và nhu cầu khách hàng. 

Nhân viên Vietcombank giao dịch với khách hàng.

Để hỗ trợ các doanh nghiệp, các nhà hoạch định chính sách của cộng đồng ASEAN cần tiếp tục thống nhất thực hiện chuỗi giải pháp mang tính đột phá, khả thi gồm: Tiếp tục rà soát và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý nhằm thúc đẩy thuận lợi hóa thương mại, bảo đảm lưu thông hàng hóa và các chuỗi cung ứng trong khu vực không bị gián đoạn; xây dựng chính sách đầu tư thông thoáng, bền vững, có trách nhiệm trong khu vực; bảo đảm an ninh lương thực và chuỗi giá trị nông nghiệp; tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo, tiến tới xây dựng kinh tế tuần hoàn; tăng cường phát triển cơ sở hạ tầng số, kết nối số, an toàn dữ liệu số, kiến thức và kỹ năng số gắn kết giữa các nước thành viên ASEAN để phát triển kinh tế số; chia sẻ thông tin và kinh nghiệm để xử lý các thách thức mà các nền tảng thương mại điện tử đang phải đối mặt; tận dụng các cơ hội của cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhằm khắc phục bất lợi từ việc đóng cửa nền kinh tế, giãn cách xã hội trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 và duy trì tính cạnh tranh trong kỷ nguyên kinh tế số.

Với khả năng linh hoạt, thích ứng tốt của doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và doanh nghiệp khu vực ASEAN nói chung, tôi cho rằng, sau đại dịch Covid-19, khu vực ASEAN vẫn là khu vực có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất. Với xu thế đó, các doanh nghiệp cần chuần bị lộ trình và cơ cấu lại các hoạt động kinh doanh lõi theo tình hình kinh tế mới.

Trong bài phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh Kinh doanh và Đầu tư ASEAN, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc kêu gọi các nước đầu tư vào Việt Nam và ASEAN, ông đánh giá thế nào về cơ hội của doanh nghiệp Việt Nam và Vietcombank hậu Covid-19?

Việt Nam là thị trường năng động của năng động. Như Thủ tướng đã nhận định, chúng tôi cũng cho rằng, sau đại dịch Covid-19, khu vực ASEAN nói chung và đặc biệt là Việt Nam nói riêng sẽ là điểm đến của các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp FDI nước ngoài.

Vietcombank - ngân hàng vốn có thế mạnh phục vụ các doanh nghiệp nước ngoài và các doanh nghiệp FDI. Do đó đây sẽ là cơ hội rất lớn cho Vietcombank và Vietcombank đã sẵn sàng đón nhận cơ hội này.

ThS. ĐẶNG THỊ HỒNG NHUNG [Bộ môn Tài chính - Kế toán, Khoa Kinh tế - Quản trị kinh doanh, Trường Đại học An Giang, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh]

TÓM TẮT:

Hệ sinh thái ngân hàng số đang phát triển ở Việt Nam trong giai đoạn đầu với sự “bùng nổ” nhiều tiềm năng phát triển, đặc biệt trong bối cảnh tác động của đại dịch Covid-19 đã đặt ra những yêu cầu cần tăng cường, thúc đẩy sử dụng các dịch vụ ngân hàng số, nhằm đảm bảo sự hoạt động liên tục của hệ thống ngân hàng. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm chỉ ra những cơ hội và thách thức của hoạt động chuyển đổi số mà các ngân hàng thương mại đang phải đối mặt.

Từ khóa: chuyển đổi số, cách mạng công nghiệp 4.0, ngân hàng số.

Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 1813/QĐ-TTg về Đề án phát triểnthanh toán không dùng tiền mặttại Việt Nam giai đoạn 2021-2025. Một trong những nội dung tại Đề án Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt đó là, Thủ tướng Chính phủ giaoNgân hàng Nhà nướcphối hợp với Bộ Tư pháp, các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách vềtiền kỹ thuật sốquốc gia giai đoạn 2021 - 2025.

Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng được giao trong năm 2022 phải hoàn thành cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính [Fintech] trong lĩnh vực ngân hàng. Điều này nhằm quản lý, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và triển khai các mô hình hợp tác, kinh doanh mới trong cung ứng dịch vụ thanh toán.

Phát triển ngân hàng số là xu thế tất yếu, “thổi” làn gió công nghệ giúp các ngân hàng cải thiện quy trình làm việc nội bộ, cung cấp sản phẩm dịch vụ, chứng từ cũng như phương thức giao dịch với khách hàng,… Với khách hàng, lợi ích của các ứng dụng tài chính - ngân hàng đến từ việc sử dụng dịch vụ thuận tiện, bảo mật hơn, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng tài khoản.

Nhận biết được vai trò quan trọng của việc cần phải phát triển ngân hàng số tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, tác giả quyết định chọn đề tài “Cơ hội và thách thức của hoạt động chuyển đổi số đến ngành ngân hàng”.

2. Cơ sở lý luận và thực trạng hoạt động chuyển đổi số tại cácngân hàng điển hình

Cách mạng công nghiệp 4.0 thúc đẩy các ngân hàng toàn cầu nỗ lực thích ứng và cập nhật công nghệ theo hướng số hóa nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường và gia tăng trải nghiệm cho khách hàng. Ngân hàng số [Digital Banking] mở ra kỷ nguyên mới cho ngành Tài chính, giúp thay đổi thói quen thực hiện các giao dịch tài chính tại quầy truyền thống sang ứng dụng trên laptop hoặc điện thoại thông minh.

Ngân hàng số [Digital Banking] là một hình thức ngân hàng số hóa tất cả những hoạt động và dịch vụ ngân hàng truyền thống. Theo đó, mọi giao dịch ngân hàng đều được thực hiện qua Internet thông qua các hình thức như GPRS/3G/4G/Wifi, diễn ra mọi lúc mọi nơi. Khách hàng không phải đến chi nhánh hay phòng giao dịch ngân hàng, chỉ cần vài thao tác đơn giản, trong 1 - 2 phút có thể thực hiện mọi giao dịch trực tuyến, như: thanh toán; chuyển khoản/chuyển tiền; vay vốn; gửi tiết kiệm; nộp tiền vào tài khoản; quản lý tài khoản; tham gia các sản phẩm đầu tư, bảo hiểm;… Đáng chú ý, hiện nay, nhiều dịch vụ thanh toán mới, hiện đại như: thẻ ngân hàng, QR Code, ví điện tử,… đã được các ngân hàng, tổ chức trung gian thanh toán đẩy mạnh triển khai.

Theo kết quả khảo sát của Visa, ngày càng nhiều người quan tâm đến các phương thức thanh toán mới trên thị trường. Thanh toán sinh trắc học [chẳng hạn như quét vân tay, nhận dạng giọng nói/khuôn mặt hoặc quét võng mạc] được quan tâm đặc biệt. Có tới 83% người tiêu dùng trong nước hiện đã biết đến các phương thức thanh toán này và đa số cũng quan tâm trải nghiệm chúng. Thẻ không số cũng dần được nhận biết bởi 62% người tiêu dùng và có tới 77% người tiêu dùng sẽ sử dụng chúng cho các giao dịch trong tương lai.

Theo McKinsey [2021], thị trường tiêu dùng của châu Á đang thay đổi mạnh mẽ với các góc độ tăng trưởng mới, liên quan mật thiết đến sự phát triển của công nghệ, mang lại cơ hội cho các dịch vụ tài chính số, theo nghiên cứu mới "Beyond income: Redrawing Asia's consumer map" của ViệnToàn cầu McKinsey [MGI].

Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đến cuối tháng 4/2021, cả nước có trên 79 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán triển khai thanh toán qua Internet và 44 tổ chức thanh toán qua điện thoại di động. Trong 4 tháng đầu năm 2021, thanh toán điện tử qua Internet, điện thoại di động, QR Code đạt được kết quả đáng ghi nhận, thu hút số lượng lớn khách hàng sử dụng. So với cùng kỳ 4 tháng đầu năm 2020, giao dịch qua kênh Internet tăng tương ứng 65,9% về số lượng; 31,2% về giá trị; giao dịch qua kênh điện thoại di động tăng tương ứng 86,3% về số lượng; 123,1% về giá trị; giao dịch qua kênh QR Code tăng tương ứng 95,7% về số lượng; 181,5% về giá trị. Theo thống kê từ Ngân hàng Nhà nước, tính đến tháng 9/2021, tổng số lượng giao dịch qua hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng lần lượt tăng 1,88% về số lượng và tăng 42,58% về giá trị. Hệ thống bù trừ điện tử và chuyển mạch giao dịch tài chính tăng 96,63% về số lượng và 133,11% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020.

Trường hợp Vietcombank, ngân hàng này đã sớm triển khai các sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử ưu việt, tích hợp nhiều tính năng thanh toán. Về mảng dịch vụ thanh toán điện tử, hiện nay, Vietcombank cung cấp chokhách hàng cá nhân các hình thức dịch vụ, như: Ngân hàng số VCB Digibank, VCBPAY, thanh toán thẻ nội địa/quốc tế, cổng dịch vụ công quốc gia trực tuyến, kết nối với các đơn vị trung gian thanh toán như ví điện tử, Napas, Vnpay,… Hiện nay, với hơn 20 triệu khách hàng cá nhân của Vietcombank, khoảng 6 triệu khách hàng đã sử dụng dịch vụ VCB Digibank để giao dịch 24/7. Với ứng dụng ngân hàng số VCB Digibank, ngoài các chức năng cơ bản như chuyển khoản, truy vấn thông tin tài khoản/thẻ, tra cứu thông tin tỷ giá, lãi suất, nhận thông báo OTT,… người dùng còn có thể trải nghiệm các tiện ích khác như thanh toán hóa đơn điện, nước, nạp tiền điện thoại, đặt vé máy bay, tàu xe, quét mã VNPAY-QR,…

Trường hợp Ngân hàng Thương mại cổ phần Bắc Á, việc ứng dụng công nghệ chuyển đổi số vào ngân hàng nhằm hướng tới nâng cao trải nghiệm người dùng, ngân hàng cũng liên tục cập nhật các tính năng sản phẩm - dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt để phục vụ khách hàng giao dịch thông suốt, tiện lợi hơn. Đây không chỉ là “bước đi” của Ngân hàng Thương mại cổ phần Bắc Á khi Covid-19 bùng phát, mà còn mang tính chiến lược lâu dài.

3. Cơ hội và thách thức của hoạt động chuyển đổi số đến ngành Ngân hàng

3.1. Những cơ hội trong hoạt động chuyển đổi số mang lại cho ngành Ngân hàng

Thứ nhất, chuyển đổi số đối với hoạt động ngành Ngân hàng như Internet, điện toán đám mây, lưu trữ dữ liệu quy mô lớn [big data],… sẽ mang lại cơ hội cho việc đẩy nhanh tiến trình hướng tới chuẩn hóa các mô hình nghiệp vụ ngân hàng trong tương lai, trong đó bao gồm hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt. Chuyển đổi số giúp các ngân hàng thương mại trong nước có cơ hội định hình lại mô hình kinh doanh, quản trị, thanh toán điện tử, hướng tới việc xây dựng các ngân hàng kỹ thuật số thông minh trong tương lai. Từ đó, ngân hàng tập trung phát triển những đối tượng khách hàng mục tiêu - những người dùng có khuynh hướng sử dụng nhiều dịch vụ ngân hàng số.

Hình 1: Dự báo số người dùng dịch vụ ngân hàng số tại châu Á
[theo McKinsey 2021]

đơn vị tính: triệu người

Dựa vào Hình 1, ta thấy dự báo số người dùng dịch vụ ngân hàng số tại châu Á năm 2020 đạt 1.700 triệu người, tăng 1.030 triệu người, tương đương tăng 154% so với năm 2012. Cho thấy xu hướng người dùng tại châu Á ngày càng sử dụng nhiều hơn các dịch vụ ngân hàng số.

Theo số liệu khảo sát của Visa, ngân hàng số đang nhận được sự ủng hộ đông đảo từ người tiêu dùng Việt Nam với 77% và có tới 31% người tiêu dùng sử dụng các dịch vụ này. Động lực thúc đẩy việc áp dụng các hình thức này xuất phát từ sự tiện lợi, người tiêu dùng có thể thực hiện giao dịch bất kỳ lúc nào mà không cần phải đến ngân hàng. Trong đó, dịch vụ thanh toán hóa đơn được người tiêu dùng Việt Nam ưa thích nhất [72%] và tiếp đến là chuyển tiền cho gia đình, bạn bè [67%].

Thứ hai, công nghệ số sẽ góp phần thay đổi cơ cấu tỷ trọng doanh thu và hiệu quả kinh doanh. Đến năm 2020, tài sản do các chuyên gia tư vấn trực tuyến tự động [robo-adviser] quản lý sẽ tăng 68%/năm, lên đến 2.200 tỷ USD [theo Công ty Tư vấn kinh doanh AT Kearney 2015]; 60% đầu tư công nghệ thông tin sẽ dành cho điện toán đám mây [theo IDC 2015]. Bên cạnh đó, việc lưu trữ dữ liệu lớn và phân tích kinh doanh [business analytics] sẽ giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh.

Thứ ba, trong bối cảnh bùng phát của dịch Covid-19, bên cạnh những ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam, nếu nhìn ở một khía cạnh khác, thì dịch Covid-19 lại được xem như một “đòn bẩy” kích thích tiến trình chuyển đổi số trong hệ thống ngân hàng, trong đó thói quen giao dịch “offline” sang “online” đã được định hình ngày càng rõ rệt hơn. Vì vậy, một số ngân hàng thương mại tận dụng cơ hội tiếp tục đầu tư để phát triển dịch vụ ngân hàng số theo xu thế này. Dễ nhận thấy tiềm năng của các xu hướng này đối với nhóm người dùng trẻ là rất lớn. Trong đó, người tiêu dùng thế hệ Z là lực lượng tiêu dùng cốt lõi của thương mại trên mạng xã hội, với 85% người được khảo sát đã biết về mạng xã hội và 68% hiện đang sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội để xem tối thiểu 3 đánh giá liên quan đến sản phẩm trước khi mua hàng lần đầu tiên.

3.2. Những thách thức của hoạt động chuyển đổi số đến ngành Ngân hàng

Thứ nhất, hoạt động chuyển đổi số đối với ngành Ngân hàng tạo ra thách thức trong lĩnh vực thanh toán và hoàn thiện hành lang pháp lý, phục vụ hoạt động thanh toán điện tử. Trong đó, khuôn khổ pháp lý và cơ chế chính sách liên quan đến các dịch vụ, phương tiện thanh toán trực tuyến, điện tử mới, hiện đại, tiền ảo, thẻ ảo, tiền điện tử,… là những vấn đề mới và phức tạp, cần được tiếp tục nghiên cứu, đánh giá, sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu thực tế và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và viễn thông.

Thứ hai, thách thức còn tồn tại là việc mô hình kinh doanh, quản trị về thanh toán có thể cần được xem xét lại để phù hợp với xu hướng quản trị thông minh, mô hình ngân hàng di động, ngân hàng số, thanh toán điện tử. Bên cạnh đó, các ngân hàng cần nghiên cứu, tối đa hóa trải nghiệm của khách hàng trong lĩnh vực thanh toán để đáp ứng nhu cầu thanh toán không dùng tiền mặt của khách hàng trong thời đại công nghệ.

Thứ ba, sự phát triển ngày càng tinh vi của công nghệ số cũng kéo theo sự gia tăng lỗ hổng bảo mật và tội phạm công nghệ cao. Đối với lĩnh vực thanh toán gồm thanh toán thẻ qua POS, thanh toán điện tử gần đây có những diễn biến phức tạp với những hành vi, thủ đoạn mới, tinh vi hơn. Do vậy, thách thức cho toàn bộ ngành Ngân hàng Việt Nam nói chung và cho lĩnh vực thanh toán nói riêng trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 chính là vấn đề an toàn cho hệ thống ngân hàng, hệ thống thanh toán, vấn đề bảo mật thông tin và vấn đề về các loại tội phạm công nghệ cao, cũng như thách thức về trình độ, năng lực, số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin.

4. Kết luận

Dựa trên những cơ sở lý luận và thực trạng hoạt động chuyển đổi số tại một vài ngân hàng điển hình, bài viết đi sâu nghiên cứu, nhằm chỉ ra những cơ hội và thách thức của hoạt động chuyển đổi số mà các ngân hàng thương mại đang phải đối mặt. Những cơ hội mà hoạt động chuyển đổi số mang đến cho lĩnh vực ngân hàng gồm đẩy nhanh tiến trình hướng tới chuẩn hóa các mô hình nghiệp vụ ngân hàng trong tương lai, trong đó bao gồm hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt; thay đổi cơ cấu tỷ trọng doanh thu và hiệu quả kinh doanh; tiếp cận xu hướng người dùng. Bên cạnh đó, hoạt động chuyển đổi số cũng mang lại một số thách thức đến lĩnh vực ngân hàng, như: yêu cầu hoàn thiện hành lang pháp lý phục vụ hoạt động thanh toán điện tử; mô hình kinh doanh, quản trị về thanh toán cần được xem xét lại để phù hợp với xu hướng quản trị thông minh, mô hình ngân hàng di động, ngân hàng số, thanh toán điện tử.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Lương Văn Hải [2021]. Thách thức đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam trong chuyển đổi số. Truy cập tại //tapchinganhang.gov.vn/thach-thuc-doi-voi-cac-ngan-hang-thuong-mai-viet-nam-trong-chuyen-doi-so.htm
  2. Phạm Tiến Dũng [2022]. Ngân hàng số - Cơ hội và thách thức. Truy cập tại //thaibinh.gov.vn/chuyen-trang-chuyen-muc/hoat-dong-nganh-ngan-hang-thai-binh/ngan-hang-so-co-hoi-va-thach-thuc2.html
  3. PV [2021]. Ngân hàng số phục vụ đa nhu cầu tài chính. Truy cập tại //nhandan.vn/thong-tin-doanh-nghiep/ngan-hang-so-phuc-vu-da-nhu-cau-tai-chinh-648251/
  4. Cấn Văn Lực [2021]. Cơ hội, thách thức và giải pháp đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Truy cập tại //antoanthongtin.gov.vn/chinh-sach---chien-luoc/co-hoi-thach-thuc-va-giai-phap-doi-voi-he-thong-ngan-hang-viet-nam-trong-boi-canh-cach-mang-cong-ngh-104605
  5. M.H [2021]. Ngân hàng Nhà nước được giao nghiên cứu tiền kỹ thuật số quốc gia. Truy cập tại //thitruongtaichinhtiente.vn/ngan-hang-nha-nuoc-duoc-giao-nghien-cuu-tien-ky-thuat-so-quoc-gia-37746.html
  6. Vietnamplus [2021]. Đại dịch Covid-19 - Tác nhân thúc đẩy thói quen giao dịch ngân hàng. Truy cập tại //special.vietnamplus.vn/2021/12/07/dai-dich-covid-19-tac-nhan-thuc-day-thay-doi-thoi-quen-giao-dich-ngan-hang/
  7. PV [2021]. Thanh toán điện tử lên ngôi trong đại dịch Covid-19. Truy cập tại //dangcongsan.vn/thong-tin-kinh-te/thanh-toan-dien-tu-len-ngoi-trong-dai-dich-covid-19-598100.html

OPPORTUNITIES AND CHALLENGES OF DIGITAL

TRANSFORMATION IN TH BANKING INDUSTRY

• Master. DANG THI HONG NHUNG

Department of Finance and Accounting

Faculty of Economics - Bussiness Administration, An Giang University

Vietnam National University - Ho Chi Minh City

ABSTRACT:

The digital banking ecosystem of Vietnam is still at its early stage of development but it has great development potential, especially in the context of the on-going COVID-19 pandemic. The pandemic has catapulted the needs for digital banking services to ensure the continuous operation of the banking system. This study aims to point out the opportunities and challenges of digital transformation that commercial banks are facing.

Keywords: digital transformation, the Fourth Industrial Revolution [Industry 4.0], digital banking.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 2, tháng 2 năm 2022]

Video liên quan

Chủ Đề