Chính hữu là nhà thơ như thế nào

Giới thiệu tiểu sử của nhà thơ Chính Hữu, tại đây bạn cũng sẽ tìm thấy tài liệu tiểu sử sự nghiệp sáng tác văn học của nhà thơ Chính Hữu.

Bài viết này được đăng tại freetuts.net, không được copy dưới mọi hình thức.

Trong thời kì kháng chiến, người lính chính là đề tài lớn được các nhà văn, nhà thơ sử dụng làm để viết. Trong đó chúng ta không thể nhắc đến nhà thơ lớn Chính Hữu, ông đã sáng tác một khối lượng lớn các tác phẩm mang tâm hồn của người lính. Với ngòi bút sinh động và lời thơ hùng hồn, ông đã đưa người đọc trở về với kí ức ngày xưa. Để tìm hiểu rõ hơn về nhà thơ Chính Hữu, các bạn hãy cùng theo dõi bài viết này nhé.

1. Tiểu sử và cuộc đời của nhà thơ Chính Hữu

Chính Hữu tên thật là Trần Đình Bắc, ông sinh năm 1926 và mất năm 1007. Ông là một nhà thơ, nguyên Đại tá, Phó cục trưởng cục Tuyên huấn thuộc Tổng cục chính trị, Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Phó tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam. Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật lần 2 [năm 2000].

Tiểu sử hoạt động

Ông sinh tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Nguyên quán của ông là huyện Can Lộc [nay là huyện Lộc Hà], tỉnh Hà Tĩnh. Ông học tú tài [triết học] ở Hà Nội trước cách mạng tháng Tám. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ Đô, chiến đấu chống lại quân đội Pháp ở Hà Nội. Sau khi đưa chính phủ đầu não Việt Minh ra khỏi vùng chiến sự, đơn vị của ông rút quân về huyện Đông Anh và sống sót. Ông được đưa đi bồi dưỡng chính trị, làm chính trị viên đại hội [chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954].

Bài viết này được đăng tại [free tuts .net]

Ông làm thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Tập thơ Đầu súng trăng treo [1966] là tác phẩm chính của ông. Bài thơ "Đồng chí" được in vào tháng 2-1948. Thơ ông không nhiều nhưng lại có nhiều bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. Ông đã sáng tác bài thơ "Đồng chí" mà sau này đã được phổ nhạc cho bài hát "Tình đồng chí". Bài hát đã khơi dậy những xúc động mãnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ. Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính cách mạng của văn học thời kháng chiến chống Pháp [1946 - 1954].

Vào 00 giờ 27 phút ngày 27 tháng 11 năm 2007, ông đã qua đời tại bệnh viện Hữu Nghị thành phố Hà Nội.

2. Các tác phẩm chính

Đầu súng trăng treo [tập thơ, NXB Văn học, 1966]

Thơ Chính Hữu [tập thơ, NXB Hội nhà văn, 1997]

Tuyển tập Chính Hữu [NXB Văn học, 1998]

3. Những nhận định về nhà thơ Chính Hữu

Nhà thơ Chính Hữu là một thi sĩ với những trang thơ của người lính:

Nhà thơ Vũ Thuần Phương đã từng nhận xét về ông rằng "Chính Hữu là nhà thơ quân đội thực thụ cả ở phía tác giả lẫn tác phẩm". Trong cuộc đời thơ ca của mình, ông đã gắn bó với màu áo xanh của người lính. Những giai điệu, vần thơ của ông đều mang đậm chất của một người chiến sĩ.

Đối với Chính Hữu, khi viết về người lính, ông luôn dành cho họ những lời tốt đẹp. Không phải vì ông cũng là một người lính mà bởi vì tâm hồn của ông đã thuộc về họ. Ông giãi bày những niềm hạnh phúc, hân hoan thật sự qua những câu thơ.

Chính Hữu đã từng tâm sự "Thơ phải ngắn ở từng câu chữ, những phải dài ở sự ngân vang". Chính vì lẽ đó, ông luôn là người tỏa sáng trong dòng thơ chiến sĩ một cách rất riêng.

Lời kết: Các bạn vừa được tham khảo và tìm hiểu về tác giả Chính Hữu, đây chắc chắn là bài viết bổ ích giúp cho các bạn có thêm tài liệu để tham khảo. Chúc các bạn học tốt.

Tiểu sử và sự nghiệp nhà thơ Chính Hữu

  • 1. Tiểu sử và cuộc đời của nhà thơ Chính Hữu
  • 2. Các tác phẩm chính

VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh cùng các bạn bài viết về sự nghiệp và cuộc đời của nhà thơ Chính Hữu để tìm hiểu và tham khảo giúp chúng ta hiểu rõ và cuộc đời ông và các tác phẩm nổi tiếng để học tốt môn Ngữ văn.

Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Huy Cận

Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Xuân Diệu

Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Phạm Tiến Duật

Chính Hữu là nhà thơ quân đội thực thụ cả ở phía tác giả lẫn tác phẩm. Trong cuộc đời thơ ca của mình, ông đã gắn bó với màu áo xanh của người lính. Những giai điệu, vần thơ của ông đều mang đậm chất của một người chiến sĩ. Đối với Chính Hữu, khi viết về người lính, ông luôn dành cho họ những lời tốt đẹp, không phải vì ông cũng là một người lính mà bởi vì tâm hồn của ông đã thuộc về họ. Hãy cùng VnDoc tìm hiểu về cuộc đời cũng như sự nghiệp sáng tác, các tác phẩm nổi bật và phong cách thơ của nhà thơ Chính Hữu thông qua nội dung bài viết dưới đây.

1. Tiểu sử và cuộc đời của nhà thơ Chính Hữu

Chính Hữu, tên thật là Trần Đình Đắc, là một nhà thơ Việt Nam, Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật [năm 2000].

Tiểu sử hoạt động

Ông sinh ngày 15 tháng 12 năm 1926 tại Vinh [Nghệ An]. Tuy nhiên, quê của ông lại là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Ông học tú tài [triết học] ở Hà Nội trươcs cách mạng tháng tám. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ Đô và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ. Ông còn làm chính trị viên đại hội [chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954]. Ông làm thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Tập thơ Đầu súng trăng treo [1966] là tác phẩm chính của ông. Bài thơ "Đồng chí" được in vào tháng 2-1948. Thơ ông không nhiều nhưng lại có nhiều bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. Ông đã sáng tác bài thơ "Đồng chí" mà sau này đã được phổ nhạc cho bài hát "Tình đồng chí". Bài hát đã khơi dậy những xúc động mãnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ .

2. Các tác phẩm chính

  • Đầu súng trăng treo [tập thơ, NXB Văn học, 1966]
  • Thơ Chính Hữu [tập thơ, NXB Hội nhà văn, 1997]
  • Tuyển tập Chính Hữu [NXB Văn học, 1998]

Tiểu sử Chính Hữu

Nhà thơ Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc, sinh năm 1926 tại TP Vinh, tỉnh Nghệ An. Quê gốc : huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Thuở nhỏ học tiểu học và thành chung ở Vinh. Từ khi học thành chung đã rất mê thơ. Thơ Rembô và tập thơ Lửa thiêng của Huy Cận đã kích thích lòng yêu thơ của Chính Hữu. Học tú tài ở Hà Nội [phần I ở trường Văn Lang, phần 2 [triết học] ở trường Louis Pasteur]. Năm 1944, ông bắt đầu làm thơ, chủ yếu là thơ tình. Tháng 5 – 1945, tham gia Việt Minh bí mật [thanh niên cứu quốc]. Cuối 1946, ông tham gia tự vệ thành, rồi trở thành chiến sĩ của Trung đoàn Thủ đô. Khi Trung đoàn rút khỏi Hà Nội, ông viết lời cho bài hát Ngày về của nhạc sĩ Lương Ngọc Trác. Năm 1947, ông là Chính trị viên một đại đội chiến đấu. Năm 1949, ông là Phó ban Văn nghệ quân đội [tiền thân của phòng Văn nghệ quân đội]. Năm 1952, ông là Chính trị viên phó, Chính trị viên Tiểu đoàn 322, Trung đoàn 88, Sư đoàn 308 và tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Năm 1957, là Trưởng phòng Văn nghệ quân đội. Từ 1970 đến 1983 ông là Cục phó Cục tuyên huấn, Tổng cục chính trị, phụ trách văn hóa văn – nghệ. Sau đó ông chuyển ngành làm Phó tổng thư ký Hội nhà văn khóa III và Ủy viên BCH khóa IV.

Tác phẩm Chính Hữu

Tác phẩm chính : Năm 1946 viết bài Ngày về. Năm 1948 viết bài Đồng chí như là một “hiện tượng” của thơ kháng chiến, thơ bộ đội. Đầu súng trăng treo [thơ xuất bản lần 1 – 1966, xuất bản lần 2 – 1972, xuất bản lần 3 – 1984], Thơ Chính Hữu [thơ – 1997], Tuyển tập Chính Hữu [thơ – 1998].

Là người sớm tạo được cái tên trên thi đàn văn học cách mạng và kháng chiến, vậy mà trong suốt cuộc đời sáng tạo, Chính Hữu chỉ cho ra mắt bạn đọc hơn 50 bài thơ. Số lượng sáng tác của ông không nhiều nhưng thơ ông lại có nhiều nét đặc sắc, sớm định hình một phong cách riêng mang dấu ấn cá nhân. Một số bài thơ như Ngày về, Đầu súng trăng treo, Ngọn đèn đứng gác, Đường ra mặt trận… của Chính Hữu được phổ nhạc khiến thơ ông càng nhiều người biết đến.

Thơ Chính Hữu chân thành, mộc mạc nói ít, gợi nhiều, giàu tính khái quát, triết lý, có chiều sâu, khơi gợi những liên tưởng vượt ra ngoài giới hạn của bài thơ, tạo ra những giăng mắc, vấn vương trong ngôn từ, giọng điệu. Chính vì vậy, dù số lượng tác phẩm không nhiều song ông vẫn chiếm một vị trí xứng đáng trong đội ngũ các nhà thơ quân đội và là một trong những tên tuổi được trân trọng của nền thơ Việt Nam hiện đại.

Bài thơ Đồng Chí

Quê hương anh nước mặn, đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau. Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ

Đồng chí!

Video liên quan

Chủ Đề