Chín mé ngón tay là gì

Đây là một bệnh ngoài da thường gặp, nếu không biết cách chữa trị, giữ vệ sinh thì bệnh sẽ diễn biến dai dẳng, dễ tái phát.

Nguyên nhân gây chín mé thường gặp là do tụ cầu vàng, liên cầu sinh mủ, virus Herpes gây nên, bằng cách xâm nhập qua vết xước từ cắt móng, vết châm, vết thương nhỏ... hoặc chín mé do móng đâm vào phần mềm. Khi bị trầy, xước, rách vết da nhỏ, đặc biệt ở những người thường đổ mồ hôi nhiều, vi khuẩn sẽ xâm nhập qua các vết xước này dễ dàng, sinh sôi và phát triển, gây nhiễm trùng. Do vết xước thường là vết thương nhỏ nên người bệnh hay chủ quan, không điều trị. Thông thường, người bị chín mé ít khi được điều trị khi tổn thương ở giai đoạn nhẹ, đến khi chuyển sang giai đoạn nặng, chín mé mưng mủ thì người bệnh mới khám và điều trị. Lúc này, người bệnh sẽ gặp phải biến chứng chín mé nếu không được điều trị kịp thời.

Yếu tố nguy cơ của bệnh chín mé thường do những tác động của cuộc sống hiện đại gây ra. Cụ thể, việc đi làm móng tay, móng chân ở tiệm của phụ nữ và hiện nay cũng có không ít nam giới bắt đầu sử dụng dịch vụ này rất thường xuyên, có thể trung bình 1 tuần/lần; việc mang giày cao gót, bít mũi; chơi các môn thể thao có nguy cơ cao bị chấn thương các đầu ngón tay, ngón chân; người béo phì, người đang điều trị HIV... Tất cả những nguyên nhân này góp phần làm bệnh chín mé xảy ra nhiều hơn.

Chín mé là bệnh lý ngoài da xuất hiện vùng đầu múp móng tay, chân.

Các giai đoạn của bệnh

Khoảng 1-3 ngày đầu, ở đầu ngón tay, ngón chân xuất hiện một chỗ sưng phồng, tấy đỏ, ngứa. Sau đó đau nhức, khó chịu, có khi cứng ngón, khó cử động. Khoảng ngày thứ 4-7, thời kỳ viêm lan tỏa, lan rộng ra chung quanh cả ngón, bệnh nhân có cảm giác nhức nhối, căng tức, đau giật theo nhịp mạch đập, có thể sốt nhẹ. Trong khoảng 7 - 10 ngày đầu sau khi chín mé xuất hiện, tổn thương có thể chuyển sang giai đoạn mưng mủ. Lúc này, nếu không được điều trị kịp thời bằng cách rạch để thoát lưu mủ, hoặc rạch nhưng không đủ độ sâu để mủ có thể được dẫn lưu hết ra bên ngoài, chín mé có thể gây ra các biến chứng: viêm xương, viêm bao hoạt dịch, viêm khớp hoặc nhiễm khuẩn huyết, có thể gây ra tử vong. Với những biến chứng nêu trên, chín mé có thể khiến xương bị viêm, làm sưng, đau, tấy đỏ, để lâu gây ra lỗ rò. Bác sĩ sẽ chỉ định chụp X-quang để kiểm tra và xem xét biến chứng.

Tuy nhiên, riêng trường hợp chín mé do Herpes có thời gian ủ bệnh khoảng 2-20 ngày. Các triệu chứng toàn thân như sốt và mệt mỏi có thể xuất hiện như là biểu hiện đầu tiên của bệnh, nhưng ít gặp. Các dấu hiệu hay gặp hơn là cảm giác đau, rát bỏng, châm chích ở đốt ngón tay có nhiễm virus Herpes. Sau đó, đốt ngón tay trở nên đỏ, phù nề, xuất hiện các đám mụn nước có đường kính 1-3mm trên nền da đỏ, tồn tại trong 7-10 ngày. Các mụn nước có thể bị loét, vỡ ra, thường chứa dịch trong suốt, hoặc có màu đục hoặc có máu.

Sau đợt nhiễm trùng đầu tiên, virus Herpes từ ngón tay xâm nhập đầu mút của các dây thần kinh cảm giác ở da, di chuyển vào các hạch thần kinh ngoại vi và tế bào Schwann, sống tiềm ẩn ở đó trong thời gian rất lâu. Khi gặp điều kiện thuận lợi như suy giảm miễn dịch, sang chấn tâm lý, tiếp xúc với tia xạ, tia cực tím, laser, virus tái hoạt động, di chuyển ra da, tạo nên hình ảnh lâm sàng của nhiễm Herpes thứ phát. Thông thường, các triệu chứng lâm sàng của nhiễm Herpes tiên phát rầm rộ nhất, còn nhiễm thứ phát thì nhẹ hơn với thời gian ngắn hơn.

Người bị chín mé cần thường xuyên vệ sinh, rửa tay hằng ngày.

Cần làm gì?

Khi mắc bệnh, cần giữ sạch chỗ bị chín mé để tránh bị nhiễm trùng thêm. Có thể ngâm rửa bằng thuốc tím pha loãng, sau đó bôi mỡ kháng sinh. Nếu chín mé lên mủ thì cần rạch thoát mủ, dẫn lưu, kết hợp dùng kháng sinh. Khi vết thương sưng đau nhiều, đáp ứng kém với điều trị thì cần chụp Xquang để xác định tình trạng biến chứng của chín mé.

Biện pháp phòng bệnh

Bệnh chín mé xảy ra một phần là do thói quen không giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, vì vậy để phòng bệnh cần rửa tay, chân sạch sẽ hàng ngày. Tránh ngâm tay, chân trong nước quá lâu. Thường xuyên thay tất, tránh để cho chân bị ẩm ướt. Không đi chân đất, tránh để cát bụi dính vào các kẽ ngón chân. Hạn chế mang giày cao gót, giày bít ngón; không đi giày, dép quá chật.

Khi cắt móng, cần lưu ý không cắt quá sát vào da hoặc lấy khóe sâu ở 2 bên cạnh của ngón chân, ngón tay, không cắt móng tròn. Móng nên được cắt thẳng và giữ cho đầu móng luôn dài hơn da. Điều này ngăn chặn góc móng đâm vào da. Tránh làm chấn thương hay trầy xước đầu ngón, khi bị trầy xước da cần bôi thuốc sát trùng và giữ sạch. Với trẻ em, cần tránh thói quen mút tay.   


Bệnh chín mé ngón tay cụ thể là tình trạng các đầu ngón tay hoặc đầu ngón chân bị nhiễm trùng dẫn đến tạo mủ gọi là chín mé mưng mủ, thậm chí là ổ áp- xe tại những vị trí này. Bệnh lý chín mé ngón tay nếu không được chữa trị đúng cách kèm theo giữ vệ sinh cơ thể thì bệnh sẽ rất dễ có nguy cơ tái phát, lặp lại nhiều lần.

Các triệu chứng thường gặp

Một số triệu chứng lâm sàng thường gặp đối với người bị chín mé ngón tay như sau: Cơ thể mệt mỏi, uể oải, đau đầu, cơ thể tê bì và sốt. Đau tại vị trí đầu hay kẽ những ngón tay ngón chân, cơn đau xảy đến bất chợt, không nhất định. Có cảm giác ngứa ran, sưng, nhức gây khó chịu cho người bệnh.

Bệnh chín mé ngón tay thường phát triển thành 3 giai đoạn như sau:

Giai đoạn 1: Xuất hiện trong vòng 1- 3 ngày đầu, tại vị trí đầu ngón tay, ngón chân thường bị sưng phồng lên, có màu đỏ, gây ngứa. Sau đó thì bệnh nhân sẽ bị đau nhức gây cảm giác khó chịu, có khi sẽ bị khó cử động những ngón tay, ngón chân.

Giai đoạn 2: Từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 7, đây là thời kỳ mà những triệu chứng của viêm sẽ lan rộng ra những vùng xung quanh, có thể là lan từ đầu ngón tay, ngón chân ra toàn bộ ngón tay, ngón chân đó. Bệnh nhân sẽ bị căng tức, đau nhức, giật theo nhịp đập của mạch máu, sốt.

Giai đoạn 3: Là giai đoạn chín mé mưng mủ

Đối với bệnh chín mé ngón tay nguyên nhân do Herpes thì virus này sẽ ủ bệnh trong thời gian từ 2 đến 20 ngày. Lúc này cơ thể sẽ có một số triệu chứng như sốt, toàn thân mệt mỏi, đau, rát, cảm giác bị châm chích tại vị trí đốt ngón tay, ngón chân đang bị tổn thương. Vài ngày sau thì tại những vị trí này sẽ có hiện tượng sưng, đỏ, phù, mọc những mụn nước kích thước khoảng 1- 3mm trong vòng 7- 10 ngày. Mụn nước trong giai đoạn này có thể bị vỡ ra thành những dịch trong suốt, đục hay đỏ của máu và có khi còn bị loét. Sau giai đoạn nhiễm trùng này, virus sẽ xâm nhập vào những nhánh thần kinh cảm giác có ở da, sau đó đi vào hạch thần kinh ngoại vi và cuối cùng là sinh sống ở tế bào Schwann trong một thời gian dài. Nếu cơ thể có hệ miễn dịch suy yếu, có những sang chấn tâm lý hay tiếp xúc trực tiếp với các loại tia như tia laser, tia UV, tia xạ... thì virus sẽ hoạt động trở lại, di chuyển ngược ra da và tái phát bệnh.

Hình ảnh ngón tay chín mé.

Nguyên nhân gây bệnh

Nguyên nhân chín mé được giải thích là do vi khuẩn tụ cầu vàng và Herpes. Những loại vi khuẩn này gây nên bệnh chín mé ngón tay bằng cách xâm nhập thông qua những vết xước, vết thương, vết châm trên cơ thể người bệnh. Đối với những đối tượng mà cơ thể bị ra nhiều mồ hôi và bụi bẩn hay bám lên da thì vi khuẩn sẽ sinh sôi và nảy nở nhanh chóng hơn.

Một số nguyên nhân cụ thể gây nên bệnh lý chín mé ngón tay có thể kể ra như sau: Làm móng tay, móng chân ở những cửa tiệm bên ngoài nên tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập cơ thể. Mang giày cao gót bít mũi khiến đầu ngón chân dễ có vết thương cũng như ra nhiều mồ hôi là điều kiện cho tụ cầu vàng và Herpes xâm nhập và phát triển. Chơi một số môn thể thao gây chấn thương ở những đầu ngón tay ngón chân. Người bị bệnh béo phì. Người nhiễm HIV/AIDS đang trong quá trình điều trị.

Hình ảnh vi khuẩn tụ cầu vàng gây chín mé.

Cần làm gì?

Khi mắc bệnh cần giữ sạch chỗ bị chín mé để tránh bị nhiễm trùng thêm. Có thể ngâm rửa bằng thuốc tím pha loãng, sau đó bôi mỡ kháng sinh. Nếu chín mé làm mủ thì cần rạch thoát mủ, dẫn lưu, kết hợp dùng kháng sinh. Khi vết thương sưng đau nhiều, đáp ứng kém với điều trị thì cần chụp X-quang để xác định tình trạng biến chứng của chín mé.

Để phòng bệnh cần rửa tay, chân sạch sẽ hàng ngày, tránh ngâm tay, chân trong nước quá lâu, không đi chân đất, tránh để cát bụi dính vào các kẽ ngón chân, khi cắt móng cần lưu ý không cắt quá sát vào da hoặc lấy khóe sâu ở hai bên cạnh của ngón chân, ngón tay, không cắt móng tròn. Móng nên được cắt thẳng và giữ cho đầu móng luôn dài hơn da. Điều này ngăn chặn góc móng đâm vào da… Đề phòng chín mé do virus herpes với các nhân viên y tế: đi găng tay khi chăm sóc người bệnh, khi tiếp xúc với dịch tiết của người bệnh. Với trẻ em, tránh thói quen mút tay.

Cần điều trị bệnh chín mé ngón tay từ những ngày đầu của bệnh vì khi bệnh tiến triển đến những giai đoạn sau này thì sẽ xuất hiện một số biến chứng nghiêm trọng như viêm xương, viêm bao hoạt dịch, viêm khớp, nhiễm trùng máu, thậm chí là tử vong.


Video liên quan

Chủ Đề