Carcinom tuyến biệt hóa vừa xâm nhập cơ là gì
Ung thư nội mạc tử cung thường là ung thư biểu mô tuyến nội mạc tử cung. Điển hình là biểu hiện chảy máu tử cung sau mãn kinh. Chẩn đoán dựa vào sinh thiết. Giai đoạn dựa vào phẫu thuật. Điều trị cần phải cắt tử cung, cắt buồng trứng - phần phụ hai bên, và ở tế bào học có nguy cơ cao, thường là vét hạch châụ và hạch cạnh động mạch chủ. Đối với ung thư giai đoạn tiến triển, xạ trị, liệu pháp nội tiết hoặc hóa trị thường được chỉ định. Show Ung thư nội mạc tử cung ảnh hưởng chủ yếu đến phụ nữ sau mãn kinh. Tuổi bệnh nhân trung bình khi chẩn đoán là 61 tuổi. Hầu hết các trường hợp được chẩn đoán ở phụ nữ từ 45 đến 74 tuổi.
Các yếu tố nguy cơ gây ung thư nội mạc tử cung
Tăng tiếp xúc với estrogen ngoại sinh hoặc nội sinh có thể liên quan đến
Ung thư nội mạc tử cung thường đi kèm với sự tăng sinh nội mạc tử cung. Ung thư nội mạc tử cung thường được phân thành 2 loại. Các khối u loại I phổ biến hơn, thường đáp ứng với estrogen và thường được chẩn đoán ở phụ nữ béo phì và ở độ tuổi trẻ hơn (tiền mãn kinh hoặc sớm trong thời kỳ mãn kinh). Các khối u đó có trước tình trạng tăng sản nội mạc tử cung. Những khối u này thường ở cấp độ thấp; tiên lượng tốt. Ung thư biểu mô tuyến (độ 1 và 2) là loại mô học phổ biến nhất. Những khối u này có thể cho thấy sự mất ổn định của microsatellite và có các đột biến ở PTEN, PIK3CA, KRAS, và CTNNB1. Các khối u loại II thường ở cấp độ cao và bao gồm ung thư biểu mô dạng nội mạc tử cung cấp độ 3 và các khối u không có mô học dạng nội mạc tử cung (ví dụ, tế bào huyết thanh, tế bào trong, tế bào hỗn hợp, không biệt hóa, carcinosarcoma). Bệnh thường có xu hướng xuất hiện ở phụ nữ lớn tuổi. Khoảng 10 đến 30% có p53 đột biến. Có đến 10% ung thư nội mạc tử cung là loại II. Tiên lượng kém. Ung thư biểu mô tuyến nội mạc tử cung chiếm khoảng 75 đến 80% ung thư nội mạc tử cung. Ung thư biểu mô thanh dịch u nhú (10%), ung thư biểu mô tế bào sáng (< 5%) và ung thư tế bào cơ trơn - sarcomas (< 5%) được xem là những mô bệnh học có độ ác tính cao hơn, có nguy cơ cao và do đó thực sự những loại này có tỷ lệ lan tràn ra ngoài tử cung cao hơn. Các tế bào ung thư cơ được sử dụng để phân loại những ung thư cơ nhưng hiện nay được xem xét và điều trị như các khối u biểu mô có độ mô học cao (ung thư biểu mô). Ung thư biểu mô nhầy thường ở mức độ thấp; tiên lượng tốt. Các đột biến KRAS thường gặp trong các khối u này. Các loại mô bệnh học khác của ung thư biểu mô nội mạc tử cung là ung thư biểu mô nội tiết thần kinh, không biệt hóa và hỗn hợp (bao gồm nhiều hơn một loại, với ít nhất 10% mỗi thành phần). Ung thư nội mạc tử cung có thể lan tràn như sau:
Mức độ mô học khối u cao hơn (kém biệt hoá hơn), khả năng xâm nhập vào cơ tử cung sâu hơn, di căn hạch chậu hoặc hạch cạnh động mạch chủ, hoặc lan tràn ra ngoài tử cung. Các triệu chứng và dấu hiệu của ung thư nội mạc tử cungHầu hết (\> 90%) phụ nữ bị ung thư nội mạc tử cung có chảy máu tử cung bất thường (ví dụ: chảy máu sau mãn kinh, chảy máu giữa kỳ kinh tiền mãn kinh, rối loạn chức năng phóng noãn). Tùy thuộc vào độ tuổi và các yếu tố nguy cơ, 1 đến 14% phụ nữ bị chảy máu sau mãn kinh bị ung thư nội mạc tử cung.
Các dấu hiệu dưới đây chỉ ra nguy cơ ung thư nội mạc tử cung:
Nếu kết quả sinh thiết không thể kết luận hoặc gợi ý tiền ung thư (ví dụ, tăng sản phức tạp kèm theo mất tế bào/tế bào không điển hình) hoặc ung thư, thì việc nong và nạo (D & C), thường là nội soi tử cung, được thực hiện. Khi ung thư nội mạc tử cung được chẩn đoán, việc đánh giá trước điều trị bao gồm công thức máu (CBC) và các xét nghiệm máu khác (điện giải huyết thanh, thận và gan). Chụp X-quang ngực được thực hiện. Nếu thấy bất thường trên phim chụp X-quang phổi, nên chụp CT. Những điều sau đây cần được xem xét:
Vì ung thư nội mạc tử cung đôi khi là kết quả của một đột biến di truyền, tư vấn di truyền và/hoặc xét nghiệm nên được xem xét nếu bệnh nhân < 50 tuổi hoặc có tiền sử gia đình đáng kể về ung thư nội mạc tử cung, ung thư buồng trứng hoặc ung thư đại trực tràng hoặc đã biết hội chứng Lynch (HNPCC).
Xác định kiểu hệ gen có thể hữu ích trong điều trị bổ trợ sau phẫu thuật ở những phụ nữ có khối u tăng triển. Giai đoạn được đánh giá dựa vào phẫu thuật và bao gồm cả thăm dò ổ bụng và vùng chậu, sinh thiết hoặc cắt bỏ các tổn thương nghi ngờ ngoài tử cung, phẫu thuật cắt tử cung toàn bộ đường bụng, và ở những bệnh nhân có đặc điểm nguy cơ cao (Grade 1 hoặc 2 cộng với sự xâm nhập sâu vào cơ tử cung, Grade 3, tất cả các bệnh ung thư với mô học có nguy cơ cao), vét hạch chậu và hạch cạnh động mạch chủ. Phân giai đoạn có thể được thực hiện thông qua phẩu thuật mở bụng, nội soi ổ bụng, hoặc phẫu thuật có trợ giúp của người máy. Nếu ung thư dường như chỉ giới hạn trong tử cung, một giải pháp thay thế cho phẫu thuật cắt bỏ hạch vùng chậu và cạnh động mạch chủ là lập bản đồ hạch gác. Nếu hạch bạch huyết được xác định ở hai bên, không có chỉ định cắt hạch, bất kể đặc điểm của khối u. Nếu một bên (hoặc cả hai) không xác định được hạch gác, thì việc cắt bỏ hạch hoàn toàn là cần thiết ở bên đó. Việc bóc tách các hạch cạnh động mạch chủ là cần thiết hay không tùy thuộc vào phẫu thuật viên. Vị trí thường gặp nhất của SLN (hạch lympho chỉ điểm) vùng chậu là
Các vị trí ít gặp hơn là khu vực chậu và/hoặc vùng trước mỏm cùng. Phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn hạch bạch huyết vùng chậu được thực hiện khi xảy một trong các điều sau đây:
Tiên lượng kém với các khối u ở độ Grade cao, lan rộng hơn ra ngoài, và các bệnh nhân cao tuổi. Tỷ lệ sống sót trung bình 5 năm của bệnh nhân ung thư nội mạc tử cung là
Nhìn chung, 63% bệnh nhân có thời gian sống không bị ung thư ≥ 5 năm sau khi điều trị.
Ung thư nội mạc tử cung nên được loại bỏ toàn bộ khối, thường bằng cách thực hiện cắt tử cung toàn bộ và cắt buồng trứng vòi trứng hai bên. Phải tránh phân mảnh hoặc cắt từng mảnh khối u trong phúc mạc. Ở những bệnh nhân ung thư niêm mạc tử cung độ 1 hoặc 2 và xâm lấn < 50% cơ tử cung, xác suất di căn hạch bạch huyết là < 2%. Tuy nhiên, đối với phụ nữ trẻ ở giai đoạn IA hoặc IB ung thư biểu mô tuyến niêm mạc tử cung, bảo tồn buồng trứng thường an toàn và được khuyên bảo tồn khả năng sinh sản. Tuy nhiên, phụ nữ trẻ ở giai đoạn IA hoặc IB ung thư niêm mạc tử cung, bảo tồn buồng trứng là an toàn và được khuyến cáo để bảo tồn chức năng buồng chứng.
Nếu hạch gác được xác định ở hai bên, không có chỉ định cắt hạch, bất kể đặc điểm của khối u. Nếu hạch gác không xác định ở một bên, thì việc cắt bỏ hạch hoàn toàn là cần thiết ở bên đó. Giai đoạn II hoặc III cần điều trị xạ trị vùng chậu kết hợp với có hoặc không có hóa trị liệu. Điều trị ung thư giai đoạn III phải được cá nhân hóa, nhưng phẫu thuật là một lựa chọn; nhìn chung, bệnh nhân có phẫu thuật kết hợp với xạ trị có tiên lượng tốt hơn. Trừ những bệnh nhân có tổn thương vùng lân cận nặng nề thì nên mở bụng để cắt bỏ tử cung hoàn toàn và hai phần phụ. Điều trị giai đoạn IV thì thay đổi khác nhau và phụ thuộc vào bệnh nhân nhưng thường kết hợp phẫu thuật, xạ trị và hóa trị. Đôi khi, liệu pháp nội tiết cũng nên được xem xét. Các khối u đáp ứng với liệu pháp nội tiết với progestin chiếm 20 đến 25% số bệnh nhân. Một số loại thuốc gây độc tế bào (đặc biệt carboplatin cộng với paclitaxel) có hiệu quả điều trị Chúng được cho chủ yếu ở những phụ nữ bị ung thư di căn hoặc tái phát. Một lựa chọn khác là doxorubicin. Ở những bệnh nhân bị ung thư biểu mô huyết thanh dạng nhú tái phát ở tử cung, hóa trị liệu tiêu chuẩn bằng carboplatin và paclitaxel là khuyến nghị thường quy. Tuy nhiên, dữ liệu gần đây từ một thử nghiệm giai đoạn II theo thời gian cho thấy rằng việc bổ sung trastuzumab mang lại nhiều lợi ích hơn. Trong thử nghiệm này, những bệnh nhân bị ung thư biểu mô huyết thanh ở tử cung và có kết quả dương tính với thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì ở người 2 (HER2)/neu được phân ngẫu nhiên vào carboplatin cộng với paclitaxel (nhánh đối chứng) trong sáu chu kỳ điều trị hoặc carboplatin cộng paclitaxel cộng với trastuzumab đường tĩnh mạch (nhánh thử nghiệm). Việc bổ sung trastuzumab làm tăng thời gian sống thêm không bệnh tiến triển từ 8 tháng lên 12,6 tháng ( ). Bệnh nhân có quá sản niêm mạc tử cung phức tạp và không điển hình có nguy cơ ung thư niêm mạc tử cung lên tới 50%. Điều trị quá sản nội mạc bao gồm progestins hoặc phẫu thuật tùy thuộc vào sự phức tạp của tổn thương và mong muốn của bệnh nhân để bảo tồn khả năng sinh sản. Nếu những bệnh nhân trẻ tuổi có khối u G 1 và không có xâm nhập cơ tử cung (ghi nhận bằng MRI) muốn duy trì khả năng sinh sản, chỉ điều trị progestin là một lựa chọn. Khoảng 46 đến 80% số bệnh nhân có đáp ứng hoàn toàn trong vòng 3 tháng sau khi bắt đầu điều trị. Sau 3 tháng, bệnh nhân cần được đánh giá qua nong và nạo (D & C) buồng tử cung thay vì sinh thiết niêm mạc tử cung. Phẫu thuật được khuyến cáo nếu điều trị bảo tồn không hiệu quả (ung thư niêm mạc tử cung vẫn còn tồn tại sau 6 đến 9 tháng điều trị) hoặc nếu bệnh nhân đã hoàn thành sinh đẻ. Điều trị bảo tồn khả năng sinh sản được chống chỉ định ở những bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến có độ mô học cao, ung thư biểu mô tuyến nhú thanh dịch, ung thư biểu mô tế bào sáng, ung thư cơ (carcinosarcoma). Ở phụ nữ trẻ với giai đoạn IA hoặc IB ung thư niêm mạc tử cung, bảo tồn buồng trứng là an toàn và được khuyến cáo. Vì béo phì và cao huyết áp làm tăng nguy cơ ung thư niêm mạc tử cung và bởi vì các bằng chứng cho thấy rằng những lựa chọn lối sống nhất định có thể giúp ngăn ngừa ung thư niêm mạc tử cung, bệnh nhân cần được tư vấn về tầm quan trọng của tập thể dục, giảm cân và chế độ ăn uống hợp lý. Ung thư biểu mô nhú thanh dịch, ung thư biểu mô tế bào sáng và carcinosarcomas về mô học được xem có độ ác tính mạnh, ung thư nguy cơ cao và thực sự thường có xu hướng lan ra ngoài tử cung hơn. Điều trị bằng nhiều phương pháp được khuyến cáo áp dụng cho các khối u niêm mạc tử cung xâm lấn thuộc những loại mô học này. Điều trị cơ bản bao gồm cắt bỏ tử cung đường bụng, và cắt hai phần phụ với vét hạch chậu và hạch cạnh động mạch chậu và sinh thiết mạc nối lớn và phúc mạc. Ở những bệnh nhân ung thư lan tràn mạnh ra ngoài tử cung, phẫu thuật giảm tế bào khối u nên được làm để giảm bớt các khối nhú của u để giảm sự tồn tại của bệnh. Liệu pháp bổ trợ cho các tế bào ung thư biểu mô nhú thanh dịch và tế bào sáng phụ thuộc vào giai đoạn:
Liệu pháp bổ trợ cho khối u carcinosarcoma cũng tuỳ thuộc vào giai đoạn:
Sau đây là một nguồn thông tin bằng tiếng Anh có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của tài liệu này. Carcinoma xâm nhập là gì?Khi ung thư đại tràng phát triển và lan rộng ra ngoài lớp lót bên trong của đại tràng (niêm mạc), nó được gọi là carcinoma tuyến xâm nhập (hoặc thâm nhiễm). Ung thư xâm nhập được gọi là ung thư thực sự, vì chúng có thể lây lan sang các vị trí khác trong cơ thể. Carcinom tuyến biệt hóa vừa là gì?Ung thư biểu mô tuyến kém biệt hóa là một bệnh lý ác tính. Tuy nhiên nếu ở giai đoạn sớm, điều trị có thể khỏi bệnh hoàn toàn. Bố của bạn cần được thăm khám, làm xét nghiệm máu, chụp CT để đánh giá giai đoạn bệnh, xét khả năng phẫu thuật. Tùy giai đoạn mà cân nhắc việc có điều trị hóa chất, đích và miễn dịch. Carcinoma không biệt hóa là gì?Ung thư biểu mô không biệt hoá (carcinoma): Là loại ung thư phổ biến nhất, chiếm tỷ lệ 75% - 85% các ca bị ung thư vòm họng. Ung thư biểu mô biệt hoá chiếm tỷ lệ thấp 10% - 15%. Ung thư liên kết (sarcoma) Là dạng ung thư hiếm gặp với tỷ lệ mắc bệnh khoảng 5%. Đờ mô học 3 là gì?Độ 3: Ranh giới giữa các tế bào không rõ, mật độ nhân và mức độ chia múi của nhân cao, tỷ lệ nhân/nguyên sinh chất trên 1/2. Năm 1975, Black và các cộng sự đánh giá tiên lượng dựa vào hai yếu tố được tách biệt ra là hình ống nhỏ và hình ảnh của nhân. |