Cách làm văn nghị luận xã hội qua câu chuyện
Nghị luận xã hội về một câu chuyện là một trong những dạng bài văn hay, thường xuất hiện trong các bài kiểm tra, bài thi học kì lớp 10, 11, 12. Trong bài viết dưới đây THPT Nguyễn Đình Chiểu sẽ giới thiệu đến các bạn toàn bộ kỹ năng, cách làm và dàn ý nghị luận về một câu chuyện. Show Cách làm bài văn nghị luận xã hội từ một câu chuyện gồm 157 trang, tổng hợp kiến thức về lý thuyết, cách làm kèm theo 97 đề văn nghị luận siêu hay. Qua đó giúp các bạn học sinh củng cố kỹ năng viết văn, nâng cao nhận thức tư duy, khám phá con người của chính mình. Vậy sau đây là nội dung chi tiết tài liệu, mời các bạn cùng theo dõi tại đây. Bạn đang xem: Kỹ năng làm bài văn nghị luận xã hội từ một câu chuyện I. Thế nào là nghị luận về một vấn đề trong tác phẩm văn học?1. Đối tượng. Là một vấn đề xã hội có ý nghĩa sâu sắc nào đó được đặt ra trong tác phẩm văn học. Vấn đề xã hội có thể lấy từ hai nguồn: Tác phẩm văn học đã học trong chương trình hoặc một câu chuyện nhỏ, một văn bản văn học ngắn gọn mà học sinh chưa được học. 2. Mục đích chính của dạng đề nghị luận. Dạng đề này liên quan và xuất phát từ tác phẩm văn học, nhưng tác phẩm văn học chỉ là ‚cái cớ‛ khởi đầu. Mục đích chính là yêu cầu người viết bàn bạc nghị luận về một vấn đề xã hội, đạo lí, tư tưởng, nhân sinh, hiện tượng đời sống Nghĩa là nhân vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn học đó mà bàn luận, kiến giải. Trong trường hợp này, tác phẩm văn học chỉ được khai thác về giá trị nội dung tư tưởng, rút ra ý nghĩa xã hội khái quát của tác phẩm ấy. Tác phẩm nào cũng có một ý nghĩa xã hội nhất định. Điều quan trọng là vấn đề xã hội đó có mang tính thời sự, tính giáo dục sâu sắc, có phù hợp với tâm lý tuổi trẻ học đường hay không. 3. Đặc điểm. Bài viết cho dạng đề này, ở phần thân bài thường gồm hai nội dung lớn: Phần 1: Phân tích văn bản (hoặc nêu vắn tắt nội dung câu chuyện) để rút ra ý nghĩa vấn đề.
Phần 2 (trọng tâm): Nghị luận (phát biểu) về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học (câu chuyện). Khi đã có vấn đề (đề tài, chủ đề) cần bàn bạc rồi, thì mới bắt đầu làm bài nghị luận về một vấn đề đặt ra trong tác phẩm, nêu suy nghĩ của bản thân mình về vấn đề ấy. 4. Tác dụng. Giải quyết đề văn loại này, học sinh có cơ hội được bộc lộ năng lực do đọc – hiểu tác phẩm, những hiểu biết, những kiến thức về xã hội II. Cách làm một bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm.1. Mở bài.
2. Thân bài. *Vài nét về tác giả và tác phẩm: Giới thiệu ngắn gọn tác giả, tác phẩm có vấn đề nghị luận. *Bàn luận vấn đề xã hội đặt ra trong các tác phẩm văn học mà đề yêu cầu:
– Từ vấn đề xã hội được rút ra, người viết tiến hành làm bài nghị luận xã hội, nêu những suy nghĩ của bản thân mình về vấn đề xã hội ấy:
– Rút ra bài học nhận thức và hành động trong cuộc sống:
3. Kết bài.
III. Nghị luận xã hội về một câu chuyệnCâu chuyện 1: Suy nghĩ của anh (chị) về câu chuyện sau: Diễn giả Lê-ô Bu-sca-gli-a kể về cuộc thi mà ông làm giám khảo. Mục đích của cuộc thi là tìm ra đứa trẻ biết quan tâm đến người khác nhất. Người thắng cuộc là một em bé khoảng 4-5 tuổi. Người hàng xóm của em là một ông lão vừa mất vợ. Nhìn thấy ông khóc, em bé lại gần rồi leo lên ngồi vào lòng ông. Em ngồi rất lâu và chỉ ngồi như thế. Khi mẹ em hỏi em đã trò chuyện gì với ông ấy, em chỉ trả lời: “Không có gì đâu ạ. Con chỉ để ông ấy khóc”. (Theo Phép màu nhiệm của đời– NXB Trẻ, 2005) GỢI Ý Giải thích ý nghĩa câu chuyện:
Bàn luận và mở rộng vấn đề: – Cảm thông, chia sẻ là tình cảm giữa con người với nhau: yêu thương, động viên, giúp đỡ nhau vượt lên được những khó khăn trong cuộc sống. – Sự cảm thông, chia sẻ vô cùng cần thiết trong cuộc sống con người:
– Có nhiều cách thể hiện sự cảm thông chia sẻ: lời nói, cử chỉ, việc làm thiết thực tùy theo hoàn cảnh, phụ thuộc tâm lí người được chia sẻ. Song điều cơ bản nhất là phải xuất phát từ tình cảm, sự rung động chân thành. – Qua câu chuyện về sự cảm thông chia sẻ từ một đứa trẻ bốn tuổi, diễn giả muốn khẳng định: lòng vị tha, yêu thương là bản chất vốn có của con người, vì vậy cần vun xới cho đức tính đó được phát triển đến khi đứa trẻ đó trưởng thành. – Phê phán những người có lối sống ích kỉ, ngoảnh mặt làm ngơ trước những khó khăn bất hạnh của người khác. – Bài học nhận thức và hành động: Để cho cuộc sống trở nên tốt đẹp, con người phải có tình thương vị tha nhân ái, biết chia sẻ gắn kết với nhau. Câu chuyện 2: Đọc đoạn tin sau: Cô là người con gái thứ 20 trong một gia đình có 22 người con. Cô sinh thiếu tháng nên mọi người nghĩ cô khó mà sống được. Nhưng cô vẫn sống khỏe mạnh. Năm lên 4 tuổi, cô bị viêm phổi và sốt phát ban. Sau trận ốm đó, cô bị liệt chân trái và phải chống gậy khi di chuyển. Năm 9 tuổi, cô bỏ gậy và bắt đầu tự đi. Đến năm 13 tuổi cô đã có thể đi lại một cách bình thường và cô quyết định trở thành một vận động viên điền kinh. Cô tham gia vào một cuộc thi chạy và về cuối cùng. Những năm sau đó cô đều tham dự tất cả các cuộc thi điền kinh, nhưng cũng đều về cuối. Mọi người nói cô nên từ bỏ nhưng cô vẫn tiếp tục theo đuổi ước mơ trở thành một vận động viên điền kinh. Và rồi cô đã chiến thắng trong một cuộc thi. Từ đó trở đi cô luôn chiến thắng trong tất cả các cuộc thi mà cô tham gia. Sau đó cô đã giành được ba huy chương vàng Olympic. Cô là Wilma Rudolph. (Wilma Rudolph là nữ vận động viên người Mỹ). Anh (chị) có suy nghĩ gì từ ý nghĩa đoạn tin trên? Gợi ý đáp án – Giải thích ý nghĩa của đoạn văn
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: Trong cuộc sống, có không ít người gặp phải hoàn cảnh bất hạnh (do bẩm sinh, do tai nạn, bệnh tật<). Nhiều người trong số đó đã vươn lên khôngngừng, tự khẳng định mình ‚tàn nhưng không phế‛. Câu chuyện của Wilma Rudolph và nhiều người khác gợi suy nghĩ:
– Trách nhiệm của mỗi người và toàn xã hội với họ:
Câu chuyện 3: Trong thư gửi thầy hiệu trưởng của con trai mình, Tổng thống Mĩ A.Lin – côn viết: Xin dạy cho cháu biết đến thế giới kì diệu của sách, nhưng cũng để cho cháu đủ thời gian để lặng lẽ suy tư về sự bí ẩn muôn thuở của cuộc sống: đàn chim tung cánh trên bầu trời, đàn ong bay lượn trong nắng, và những bông hoa nở ngát trên đồi xanh. |