Bệnh màng trong tiếng ảnh là gì

Bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh

Bệnh màng trong khiến cho trẻ khó thở, thường xảy ra ở trẻ non tháng, trẻ càng non tháng nguy cơ bị bệnh càng cao.

1. Tổng quan bệnh màng trong

Bệnh màng trong là một bệnh phổ biến gây suy hô hấp nặng thường gặp ở trẻ sơ sinh non tháng do thiếu hụt Surfactant, là chất có tác dụng làm giảm sức căng bề mặt và duy trì tính ổn định của phế nang, ngăn ngừa xẹp các phế nang ở cuối thì thở ra. Bệnh thường gặp ở trẻ non tháng, cân nặng lúc sinh thấp, trẻ sinh mổ, trẻ được sinh ra từ mẹ bị đái tháo đường…

Ở phổi của người bình thường, trong phế nang chứa một chất giúp làm giảm hoạt bề mặt, có tác dụng duy trì tính ổn định của phế nang, làm cho các phế nang tránh bị xẹp, chất này được gọi là Surfactant.

Surfactant ở phổi của bào thai sẽ xuất hiện vào tuần thai thứ 20, chất này sẽ phủ vào vách trong của phế nang và có mặt trong nước ối vào tuần thai thứ 28 - 36. Ở những trẻ sinh non, phổi chưa thực sự trưởng thành, chất Surfactant chưa hoàn thiện.

Thiếu Surfactant sẽ khiến phế nang của trẻ bị xẹp, dẫn đến tình trạng huyết tương tràn vào phế nang, fibrin trong huyết tương sẽ lắng đọng bên trong phế nang và các tiểu phế quản tạo thành một lớp màng cản trở sự lưu thông không khí và sự trao đổi oxy, lúc này khí CO2 từ phế nang đi qua các mao mạch sẽ dẫn đến suy hô hấp và có thể gây tử vong nhanh.

Theo nghiên cứu, khoảng 0,5 - 1% trẻ sinh ra mắc căn bệnh này, tuổi thai càng nhỏ thì nguy cơ mắc bệnh càng cao, đây chính là yếu tố sinh non và thường gặp ở trẻ dưới 28 tuần tuổi [chiếm khoảng 60%]. Và đây cũng là một yếu tố quan trọng nhất gây tăng tỷ lệ bệnh và tử vong ở trẻ sơ sinh.

Suy hô hấp do bệnh màng trong thường gặp ở trẻ sinh non.

2. Biểu hiện của bệnh màng trong

Thường có biểu hiện sớm sau sinh và ngày càng nặng hơn. Trẻ có thể tím tái, thở nhanh, thở rút lõm ngực, cánh mũi phập phồng, nghe tiếng rên khi trẻ thở. Các triệu chứng bệnh màng trong xuất hiện sau sinh vài giờ hoặc vài ngày, đặc biệt là trong vòng 6 giờ đầu.

Trên thực tế, bệnh màng trong thường xuất hiện ở trẻ sinh non, thai ngạt. Người mẹ có mắc các bệnh lý như đái tháo đường, xuất huyết sinh dục trước sinh.

Trẻ đang thở bình thường thì đột ngột xuất hiện suy hô hấp: Triệu chứng tím tái xuất hiện ngày càng tăng, trẻ thở nhanh >60 lần/phút. 

Trẻ co kéo cơ hô hấp thấy rõ: Hiện tượng rút lõm lồng ngực, cánh mũi phập phồng. Trẻ thở rên: Chủ yếu ở thì thở ra. Rối loạn tim mạch: Mạch nhanh >120 chu kỳ/phút. Nếu biểu hiện bệnh màng trong nhẹ và điều trị đúng thì sau khoảng 72 giờ, các triệu chứng sẽ giảm dần. Nếu nặng, các dấu hiệu tím tái, khó thở tăng lên, huyết áp hạ, thân nhiệt hạ, trẻ sẽ tử vong sau vài giờ. Tuy nhiên, trẻ sau khi khỏi bệnh vẫn có thể để lại di chứng khá nặng nề như thiếu oxy não, xuất huyết não, hạ đường huyết...

Trẻ sau khi khỏi bệnh vẫn có thể để lại di chứng khá nặng nề

3. Chẩn đoán và điều trị bệnh màng trong

Sau khi được thăm khám, các bác sĩ sẽ chỉ định làm những xét nghiệm như: Máu để loại trừ nhiễm trùng, kiểm tra mức oxy máu… Chụp Xquang phổi cho thấy thể tích phổi giảm, lưới hạt lan tỏa và hình ảnh ứ khí cây phế quản.

4 giai đoạn của bệnh màng trong:

+ Ở giai đoạn I: Hình ảnh lưới hạt nhỏ rải rác, phổi nở tốt.

+ Ở giai đoạn II: Hình ảnh lưới hạt rải rác với khí phể quản đồ mức độ trung bình, giảm thể tích

phổi.

+ Ở giai đoạn III: Hình ảnh lưới hạt lan toả, xoá bờ tim, khí phế quản đồ nổi bật.

+ Ở giai đoạn IV: Mờ cả 2 bên phổi [phổi trắng xoá].

Chẩn đoán bệnh và chẩn đoán phân biệt với các bệnh khác như: Khó thở nhanh thoáng qua. Viêm phổi bẩm sinh. Các tình trạng suy hô hấp không do phổi bao gồm hạ nhiệt độ, hạ đường huyết, thiếu máu, đa hồng cầu, toan chuyển hóa.

Biến chứng bệnh màng trong thường gặp nếu không được điều trị là tràn khí màng phổi, chảy máu phổi, còn ống động mạch, xuất huyết não, viêm ruột hoại tử, bệnh võng mạc ở trẻ đẻ non, bệnh phổi mạn tính.

Các triệu chứng bệnh màng trong xuất hiện sau sinh vài giờ hoặc vài ngày.

Đối với điều trị bệnh màng trong việc điều trị chủ yếu là giúp trẻ thở tốt.

- Trước sinh, nếu có nguy cơ sinh non, mẹ có thể được tiêm Steroids trước sinh [còn gọi là tiêm thuốc trưởng thành phổi]. Thuốc Steroids kích thích phổi trẻ trưởng thành.

- Sau sinh, trẻ sẽ được chuyển đến phòng hay khoa hồi sức tích cực. Được hỗ trợ hô hấp với oxy, NCPAP [dụng cụ hỗ trợ áp lực và oxy qua một hệ thống gắn vào mũi trẻ], hoặc nặng hơn trẻ có thể phải thở máy. Trẻ có thể cần được bơm chất Surfactant nhân tạo vào phổi để bù lượng bị thiếu. Ngoài ra, trẻ còn cần được điều trị những vấn đề kết hợp khác như non tháng, nhiễm trùng… Trẻ có thể cần được nằm viện trong nhiều ngày tới nhiều tháng tùy thuộc vào độ nặng của bệnh.

Tóm lại: Bệnh màng trong là một trong những bệnh hay gặp nhất gây suy hô hấp ở trẻ sơ sinh, bệnh thường biểu hiện trong vài giờ hoặc vài ngày sau sinh. Trẻ có thể gặp nhiều biến chứng khác nhau do vấn đề bệnh hay do biến chứng điều trị. Trẻ cần được theo dõi tái khám sau xuất viện, khám mắt, khám thính lực...

Để phòng bệnh, trong thời gian thai kỳ người mẹ cần khám định kỳ, nếu có đái tháo đường cần điều trị tốt, không lạm dụng chất Corticoide trong thời gian mang thai. Người mẹ cần có chế độ dinh dưỡng hợp lý, dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ.  

Mời độc giả xem thêm video:

Mối nguy hại khi trẻ em xem tivi quá nhiều và cách khắc phục


Bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh là một trong những bệnh lý gây suy hô hấp cấp phổ biến, hay xảy ra ở nhóm trẻ sinh non. Bệnh màng trong có nguyên nhân từ sự phát triển chưa hoàn chỉnh của đường hô hấp và sự thiếu hụt surfactant, một hoạt chất trên bên mặt trong của túi phế nang.

Bệnh màng trong là một trong những nguyên nhân gây suy hô hấp cấp thường gặp nhất ở trẻ sơ sinh, đặc biệt ở nhóm trẻ sinh non. Đây cũng là bệnh lý gây tử vong nhiều nhất ở những trẻ sinh non.

Bệnh màng trong ở trẻ đẻ non xảy ra do phổi của trẻ chưa thực sự trưởng thành. Sự thiếu hụt chất surfactant khiến các túi phế nang bên trong phổi của trẻ bị xẹp, huyết tương từ các mao mạch tràn ngập phế nang và cản trở việc hô hấp. Trẻ mắc bệnh màng trong thường có biểu hiện suy hô hấp cấp tính nặng sau sinh khoảng vài phút đến vài giờ, loại trừ được các nguyên nhân khác liên quan đến nhiễm trùng, hít phân su nước ối.

Bệnh màng trong ở trẻ sinh non là bệnh được dự phòng có hiệu quả trước sinh nếu được quản lý thai kỳ tốt. Những thai phụ có tiền sử sinh non, hoặc những bất thường khác làm tăng khả năng chuyển dạ sinh non như cổ tử cung ngắn hay nhiễm trùng cần được theo dõi thai kỳ chặt chẽ hơn để kịp thời điều trị và dự phòng suy hô hấp cho trẻ.

Bệnh màng trong là một trong những nguyên nhân dẫn đến tử vong hàng đầu ở trẻ sơ sinh

Sự thiếu hụt surfactant và hệ hô hấp chưa phát triển hoàn chỉnh là nguyên nhân trực tiếp gây bệnh màng trong ở trẻ đẻ non. Surfactant là hoạt chất nằm bên trong phế nang, có nhiệm vụ duy trì sức căng bề mặt của các túi phế nang, giữ chúng không bị xẹp trong suốt quá trình hô hấp. Ở một bào thai khỏe mạnh, tế bào phế nang loại II bắt đầu tiết chất surfactant từ tuần thai thứ 20 và hệ thống phế nang phát triển hoàn tất ở tuần thai thứ 32.

Trẻ sinh non mắc bệnh màng trong phải đối diện với tình trạng giảm diện tích bề mặt trao đổi khí phế nang do xẹp phổi, thiếu oxy máu đi nuôi cơ thể dẫn đến toan hóa máu, tổn thương cấp tính và mạn tính tại nhu mô phổi. Các tổn thương tại phổi tiếp tục cản trở quá trình sản xuất chất surfactant, tăng quá trình phù các túi phế nang do ứ dịch và lắng đọng các sợi fibrin.

Bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh được chia thành hai nhóm chính: Bệnh màng trong nguyên phát xảy ra ở trẻ sinh non và bệnh màng trong thứ phát xuất hiện ở những trẻ đủ tháng và gần đủ tháng. Như vậy, bệnh màng trong không chỉ xảy ra với nhóm trẻ sinh non. Tỷ lệ ghi nhận bệnh màng trong ở trẻ đủ tháng khoảng 5% và rất hiếm ở những thai kỳ trên 38 tuần. Một số những yếu tố nguy cơ làm tăng nguy cơ xuất hiện bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh là:

  • Tăng nồng độ glucose trong máu mẹ.
  • Mẹ mắc bệnh đái tháo đường thai kỳ.
  • Nồng độ insulin trong máu mẹ cao.
  • Trẻ hít phải phân su
  • Các tình trạng viêm nhiễm tại nhu mô phổi
  • Sinh mổ

Mẹ bị đái tháo đường thai kỳ làm tăng nguy cơ mắc bệnh cho bé

Bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh biểu hiện đặc trưng với tình trạng suy hô hấp cấp xảy ra sớm sau sinh. Triệu chứng thường khởi phát khoảng 6 giờ đầu sau sinh, một số trường hợp nhẹ có thể sau vài ngày. Suy hô hấp xuất hiện một cách đột ngột với các biểu hiện như:

  • Tím tái da và niêm mạc, tiến triển nặng dần theo thời gian.
  • Tần số thở tăng nhanh. Ở những trẻ sơ sinh cực non, tần số thở có thể chậm.
  • Mạch nhanh
  • Dấu sử dụng các cơ hô hấp phụ: phập phồng cánh mũi, co kéo hõm ức
  • Phổi nghe giảm thông khí. Vùng phổi giảm thông khí lan rộng từ khu trú sang toàn phổi.
  • Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, trẻ mắc bệnh màng trong sẽ rơi vào trạng thái nặng với các triệu chứng vật vã, thở ngáp, tần số thở thấp, xuất hiện những cơn ngừng thở và tử vong.

Tình trạng suy hô hấp cấp xảy ra khoảng 6 giờ đầu sau khi sinh

Chẩn đoán bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh cần có sự phối hợp giữa việc khai thác các yếu tố nguy cơ của bệnh, triệu chứng sớm phát hiện bệnh và các xét nghiệm cận lâm sàng bổ sung. Bệnh màng trong thường xuất hiện với tần suất cao ở những trẻ sinh non, trẻ bị ngạt do hít phân su và mẹ mắc bệnh đái tháo đường. Biểu hiện trên lâm sàng chủ yếu là tình trạng suy hô hấp nặng nề, tiến triển xấu đi theo thời gian. Khi nghi ngờ một trẻ mắc bệnh màng trong, các phương tiện cận lâm sàng được chỉ định để hỗ trợ làm rõ chẩn đoán thường được dùng bao gồm:

  • Chụp X quang phổi: Bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh có các tổn thương dạng nốt mờ rải rác hai bên phổi kèm theo hình ảnh tổn thương ứ khí tại phế quản. Ở những trường hợp nặng, mô kẽ tại phổi bị phù dịch tạo nên hình ảnh mờ dạng lưới hoặc mờ toàn bộ hai phế trường khi có xẹp phổi.
  • Khí máu động mạch: Giúp xác định tình trạng suy hô hấp cấp và toan hóa máu. Nhiễm toan mất bù trong máu là dấu hiệu tiên lượng xấu cho trẻ.
  • Test sinh hóa nước ối, dịch tiết phế quản hoặc dạ dày xác định tình trạng non tháng ở trẻ.
  • Giải phẫu bệnh: Tiến hành lấy mô bệnh phẩm từ phổi làm giải phẫu bệnh để chẩn đoán chính xác bệnh chỉ được thực hiện hồi cứu trên tử thi. Phổi tổn thương đặc trưng với xẹp phế nang, lòng phế nang chứa nhiều tế bào viêm và sợ fibrin, mô kẽ sung huyết.

Xét nghiệm mẫu bệnh phẩm để đưa ra chẩn đoán bệnh chính xác

Hiệu quả của việc điều trị bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh phụ thuộc vào thời điểm phát hiện bệnh để điều trị. Trẻ mắc bệnh được phát hiện sớm ngay sau sinh làm tăng tỷ lệ điều trị thành công.

Phương pháp điều trị đặc hiệu cho bệnh màng trong là bổ sung surfactant chủ động ở những trường hợp nguy cơ cao. Việc chỉ định vào thời điểm trẻ có các biểu hiện suy hô hấp được cho là muộn. Surfactant sử dụng trên thị trường có nguồn gốc từ tự nhiên hoặc tổng hợp, sử dụng qua đường nội khí quản đến hai phổi. Sử dụng surfactant có thể gây ra nhiều tác dụng phụ như nhịp tim chậm hoặc ngừng thở.

Khi suy hô hấp xảy ra, trẻ cần được ngay lập tức hỗ trợ bằng thở oxy qua các dụng cụ khác nhau. Thở máy được chỉ định khi suy hô hấp trở nên nặng nề không đáp ứng với thở oxy. Rối loạn thăng bằng toan kiềm cần được điều chỉnh để duy trì pH máu ở mức 7,25.

Các phương pháp điều trị hỗ trợ khác bao gồm ổn định thân nhiệt, bổ sung đủ năng lượng và các chất dinh dưỡng, cân bằng điện giải cũng cần được duy trì.

Khoa nhi tại hệ thống Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là địa chỉ tiếp nhận và thăm khám các bệnh lý mà trẻ sơ sinh cũng như trẻ nhỏ dễ mắc phải: sốt virus, sốt vi khuẩn, viêm tai giữa, viêm phổi ở trẻ,... Với trang thiết bị hiện đại, không gian vô trùng, giảm thiểu tối đa tác động cũng như nguy cơ lây lan bệnh. Cùng với đó là sự tận tâm từ các bác sĩ giàu kinh nghiệm chuyên môn với các bệnh nhi, giúp việc thăm khám không còn là nỗi trăn trở của các bậc cha mẹ.

Khách hàng có thể trực tiếp đến hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc để thăm khám hoặc liên hệ hotline TẠI ĐÂY để được hỗ trợ.

XEM THÊM:

Video liên quan

Chủ Đề